PHAN CHÂU TRINH,
NGƯỜI ĐI TRƯỚC THỜI ĐẠI Trần Gia Phụng Phan
Châu Trinh đỗ cử nhân năm 1900, đỗ phó
bảng năm 1901, ra làm quan năm 1903. Năm sau (1904),
PCT đột ngôt từ quan, trở về đời
sống thường dân, hoạt động văn hóa chính
trị tự do. Đây là một quyết định hết sức
táo bạo, đi trước thời đại, v́ lúc đó, đỗ đại
khoa, ra làm quan, là ước mơ của nhiều
người để được công danh phú quư. Năm 1904, PCT cùng một số thân hữu mở ra phong trào duy tân, công khai, bất
bạo động, không thông qua triều đ́nh, mà vận
động trực tiếp với dân chúng, theo
chủ trương “khai dân trí,
chấn dân khí, hậu dân sinh”. Vận động
duy tân công khai trực tiếp với dân chúng, cũng là một
điểm mới lúc bấy giờ. Mở đầu việc
khai dân trí, PCT hô hào bỏ chữ Nho, bỏ lối thi
cử cổ điển, chuyển qua dùng quốc ngữ,
v́ quốc ngữ dễ học, dễ phổ biến, có
thể dùng làm phương tiện nhằm mở mang dân
trí, phát triển đất nước. Không kể Nam Kỳ là thuộc
địa, tại Trung và Bắc Kỳ , cho đến
năm 1919, tức 15 năm sau lời kêu gọi của PCT,
triều đ́nh mới chính thức băi bỏ việc học
chữ Nho và thi Nho học. Về
quốc ngữ, cho đến năm 1925, tức hơn 20
năm sau lời kêu gọi của PCT, Pháp mới
đưa quôc ngữ vào chương tŕnh tiểu học của
nền giáo dục mới. Như thế PCT đi trước triều đ́nh
Huế và trước cả nhà cầm quyền Pháp. Từ
năm 1905, PCT mở rộng cuộc vận động duy
tân ra khắp nước. Khi về phương Nam, đến
B́nh Thuận, PCT khuyến khích các nhân sĩ địa phương
lập công ty thương mại Liên Thành và mở trường
Dục Thanh dạy quốc ngữ.
Sau đó, ông ra Bắc năm 1906, giúp các
nhân sĩ Hà Nội lập Đông Kinh Nghĩa Thục.
Tiếp theo, PCT
qua Nhật Bản quan sát, v́ từ thời Minh Trị Thiên
Hoàng (trị v́ Nhật Bản 1867-1912), Nhật Bản là
trung tâm ánh sáng của cả châu Á.
Trên đường đi, tại Quảng Châu (Trung
Hoa), PCT gặp Phan Bội Châu, và cả hai cùng qua Nhật Bản.
Từ
Nhật Bản trở về, PCT bắt đầu cổ
xúy dân quyền. Ông khẳng định với
Phan Bội Châu rằng: "Chỉ
nên đề xướng dân quyền, dân đă biết có
quyền th́ việc khác có thể tính lần được." (Phan Bội Châu, Tự phán hay Phan Bội
Châu niên biểu, đăng trong sách Phan Bội Châu toàn tập, tập 6, Chương
Thâu sưu tầm, Huế: Nxb. Thuận Hóa, 1990, tr. 116.) Vào thời bấy giờ, chế
độ thực dân Pháp đang siết chặt gọng
kèm cai trị, khai thác tài nguyên, bóc lột
dân chúng. V́ vậy, vận
động dân quyền để “có thể tính lần được”, với các
nhà cách mạng là việc đ̣i hỏi tự do độc
lập cho đất nước.
Đây là một chủ trương “mềm”,
hết sức mới mẻ, khác với các cuộc vơ trang
chống Pháp trước đây. Kết quả việc “đề xướng dân quyền”
nổi bật nhứt là các cuộc biểu t́nh rầm rộ,
xin hạ thuế, giảm xâu của dân chúng, phát xuất từ
huyện Đại Lộc tỉnh Quảng Nam từ tháng
3, lan rộng ra các tỉnh miền Trung đến tháng 6
năm 1908. Nhà cầm quyền
Pháp cho rằng đây là kết quả công cuộc vận
động dân quyền của PCT, nên dù PCT không tổ chức,
không tham gia biểu t́nh, Pháp vẫn bắt PCT tại Hà Nội
ngày 31-3-1908 Nhờ Hội Nhân Quyền Pháp can
thiệp, PCT không bị tử h́nh, mà bị đày đi Côn
Lôn (Côn Đảo), và bị đưa về an
trí ở Mỹ Tho giữa năm 1910. Theo yêu cầu của PCT, Pháp cho
ông cùng với con trai là Phan Châu Dật rời Sài G̣n qua Pháp
ngày 1-4-1911. (Lê Thị Kinh, Phan
Châu Trinh qua những tài liẹu mới, Nxb. Đà Nẵng,
tt. 205-212.) Đến
kinh thành Paris, cái nôi của cách mạng 1789, PCT tiến thêm một
bước nữa, bắt đầu vận động
dân chủ. Dân chủ
là một khái niệm hoàn toàn mới mẽ dưới chính
thể quân chủ Việt Nam lúc đó do vua Khải Định
(trị v́ 1917-1925) đứng đầu Do chủ trương dân chủ,
PCT gởi thư “Thất điều” ngày 15-7-1922, kể bảy
tội của vua Khải Định nhân dịp nhà vua sang Pháp tham dự
cuộc đấu xảo (triển lăm) quốc tế tại
Marseille. Bảy điều
đó là: “Tôn bậy quân quyền, lạm hành thưởng phạt,
thích chuộng sự quỳ lỵ, xa xĩ quá độ,
ăn bận không phải lối, tội chơi bời,
chuyến đi tây có sự ám muội.” Thư nầy
được báo chí Pháp dịch đăng ở Paris, gây
một tiếng vang lớn trong dư luận thời
đó. Có
một điều khá lạ lùng là dầu bị PCT
đả kích nặng nề, vua Khải Định
vẫn không trừng phạt PCT. Khi thượng thư bộ H́nh Tôn
Thất Hân đề nghị yêu cầu người Pháp xử
trị PCT, th́ nhà vua trả lời: “Cần ǵ như thế.
Đại khái lời nói không trúng,
nhưng cũng không sai lắm, về phía ta phải hết
sức làm những việc cần làm mà thôi.” Ngoài ra, nhà vua c̣n từ
chối bắt PCT theo đề nghị
của bộ Thuộc địa Pháp. (Quốc sử quán
triều Nguyễn, Đại
Nam thực lục Chính biên Đệ thất kỷ, bản
dịch của Cao Tự Thanh, Nxb Văn Hóa-Văn Nghệ,
2012, tt. 393-394.)
Thái độ của vua Khải Định cho
thấy nhà vua rất trọng nễ PCT. Khi từ Pháp về Sài G̣n tháng
6-1925, PCT hai lần diễn thuyết tại Sài G̣n, đề
cao các nền dân chủ trên thế giới, nhứt là bài diễn
thuyết lần thứ hai ngày 27-11-1925 về đề tài
“Quân trị chủ nghĩa và dân trị chủ
nghĩa”. Trong bài nầy, PCT cho rằng quân
chủ là một chế độ có tính cách “nhân trị”,
nghĩa là việc cai trị dựa trên ư kiến chủ
quan cá nhân của nhà vua, chứ không dựa trên luật pháp,
dễ đưa đến độc tài, chuyên chế. Phan Châu Trinh nhấn mạnh: “…V́ cái độc quân chủ mà nó
giết hẳn cái ḷng ái quốc của dân Việt Nam ta…” Ông hô hào thiết lập chế
độ “dân trị tức
pháp trị”, tổ chức xă hội trên căn bản
pháp luật công b́nh. Mọi thành phần xă hội, từ người
đứng đầu quốc gia đến người
cùng đinh, đều phải chịu sự chế tài của
luật pháp, đều được xét xử như nhau
trước pháp luật.
Dưới
chế độ quân chủ, vua được xem là con trời
(thiên tử), có quyền phong thần, nghĩa là vua vừa
nắm thế quyền, vừa nắm thần quyền. Nền
quân chủ chuyên chế bảo thủ c̣n cho rằng “quân sử thần tử, thần
bất tử bất trung” (nghĩa là “Vua bảo bề tôi chết, bề tôi không chết là
không trung”.) V́ vậy,
dưới chế độ quân chủ, kêu gọi dân chủ
là một điều quá mới mẻ và táo bạo ở Việt
Nam vào đầu thế kỷ 20, v́ người Việt
đă trải qua cả hàng ngàn năm dưới chế
độ quân chủ và trầm ḿnh trong Nho giáo, một triết
thuyết chính trị hậu thuẫn mạnh mẽ cho chế
độ quân chủ. Một điểm rất mới
hơn nữa của PCT, đi trước thời đại
cả trăm năm, và cho đến ngày nay vẫn c̣n mới
mẻ, là ông dừng lại ở chủ trương dân chủ,
không đi vào chủ nghĩa cộng sản. Vào
đầu thế kỷ 20, chủ nghĩa CS là một thứ
thuốc phiện lôi cuốn dân chúng những nước bị
thực dân Tây phương thống trị. Tại Đại hội
II của Đệ tam Quốc tế Cộng Sản
(ĐTQTCS) ở Petrograd (hay St. Petersbourg) từ 19-7-1920 đến
23-7, và sau đó tiếp tục tại Moscow từ 24-7 đến
7-8-1920, Lenin đưa ra bản “Cương lĩnh về
vấn để Dân tộc và Thuộc địa” (Thesis on
the National and Colonial Questions), khuyến khích các nước bị
đô hộ (các nước thuộc địa) nổi lên
chống các đế quốc, giành độc lập, giải
phóng dân tộc, rồi gia nhập vào khối CS. Lúc đó, Nguyễn Ái Quốc ở
Paris gia nhập đảng CS Pháp năm 1920, sang Liên Xô
năm 1923 và từ đó hoạt động cho Đệ
tam Quốc tế CS. (Cộng ḥa Liên Bang Xô Viết, gọi tắt là
Liên Xô thành lập ngày 30-12-1922.) Khi biết Nguyễn Ái Quốc gia
nhập đảng CS, PCT gởi cho Nguyễn Ái Quốc
thư đề ngày 12-2-1922, nói rằng nhờ CS chống
Pháp th́ “quốc dân đồng
bào vẫn nguyên là cái lung con ngựa, chỉ thay người
cỡi mà thôi.” (Ngô Văn, Việt Nam 1920-1945, Amarillo, TX: Nxb. Chuông Rè, 2000, tt.:
2000, tt.39-40.) Cuối cùng, các chế độ cộng
sản sụp đổ ở các nước Âu Châu và ở
ngay cả ở Liên Xô vào cuối thập niên 80, đầu
thập niên 90, hơn 60 năm sau khi PCT từ trần, là
câu trả lời cho thấy sự sáng suốt của PCT,
người đă thẳng thừng từ chối chủ
nghĩa CS ngay từ đầu.
Thế mà ngày nay, đảng CS Việt
Nam vẫn c̣n bám đuôi theo chủ
nghĩa CS nhằm duy tŕ chế độ độc tài
đảng trị toàn trị.
Đảng CSVN chủ trương
đi ngược với phong trào duy tân. Thay v́ “khai dân trí”, CS
nhồi sọ dân chúng, làm thui chột dân trí. Thay v́ “chấn dân
khí”, CS đàn áp đe dọa làm cho dân sợ sệt. Thay v́ “hậu dân
sinh”, CS bóc lột dân khiến dân đói khổ, khiếu nại,
kiện tụng khắp nước quanh năm. Chế độ CS đă
đưa nước Việt Nam đến bên bờ vực
thẳm: Về đối ngoại,
Việt Nam đang bị Tàu cộng đe dọa nặng nề. Về kinh tế đảng CS
giành quyền lợi vào tay tư bản
đỏ, làm cho dân t́nh rất đói khổ. Quan trọng hơn cả, dưới
chế độ CS, nền văn hóa và giáo dục nước
ta suy đồi trầm trọng, không biết khi nào có thể
phục hưng được.
Không ai có thể tưởng tượng nổi cảnh
tượng một giáo chức phải quỳ xuống xin
lỗi phụ huynh ... KẾt LUẬN Chủ trương và hoạt
động của PCT cho thấy ông là nhà chính trị rất
sáng suốt, cấp tiến, luôn luôn đi trước thời
đại. Ông tỏ ra sáng suốt
và tiến bộ cả trăm năm trước. Khai
dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh, đúng là chín chữ vàng của Việt
Nam, và cũng là chín chữ
vàng của toàn thế giới, v́ thời nào, lúc nào,
ở đâu, nước nào cũng luôn luôn cần mở
mang tŕnh độ hiểu biết dân chúng, nâng cao tinh
thần dân chúng, và phát triển đời sống dân chúng. TRẦN
GIA PHỤNG (Ngày
25-3-2018) |