ĐẠI NẠN TRUNG HOA THỜI CẬN
ĐẠI Trần Gia Phụng Vào
gần cuối thế kỷ 19, bị các nước Tây
phương đe dọa, Trung Hoa khốn đốn không
kém Việt Nam, nhưng triều đ́nh nhà Thanh (cai trị
Trung Hoa 1644-1911) vẫn tự nhận Trung Hoa là thượng
quốc, có ưu quyền đối với Việt Nam. 1.-
TRUNG HOA TỰ NHẬN ƯU QUYỀN THƯỢNG QUỐC Trên
đường t́m kiếm thuộc địa sau cuộc
cách mạng kỹ nghệ ở Âu Châu, Pháp viện dẫn
lư do triều Nguyễn (cai trị Việt Nam 1802-1945) đàn
áp Ky-Tô giáo, Pháp đem quân tấn công Đà Nẵng ngày 1-9-1858,
mở đầu cuộc xâm lăng Việt Nam. Pháp chiếm các tỉnh Gia Định,
Định Tường, Biên Ḥa, Vĩnh Long, buộc triều
đ́nh Huế phải kư ḥa ước ngày 5-6-1862, nhượng
ba tỉnh Biên Ḥa, Gia Định, Định Tường
(ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ) cho Pháp. Không
dừng lại ở đó, Pháp tiếp tục chiếm ba
tỉnh miền Tây Nam Kỳ là Vĩnh Long, An Gia, Hà Tiên
năm 1867, và tiến quân ra đánh Bắc Kỳ lần thứ
nhứt năm 1873, chiếm Hà Nội, Ninh B́nh, Hải
Dương, Nam Định.
Pháp ép triều đ́nh Huế kư ḥa ước ngày
15-3-1874, nhường đứt luôn ba tỉnh miền Tây
Nam Kỳ cho Pháp, để Pháp trả lại các tỉnh Bắc
Kỳ. Ḥa
ước ngày 15-3-1874 gồm 22 điều khoản, trong
đó điều khoản số 2 nói rằng “Tổng thống Pháp nhận
Đại Nam là một quốc gia độc lập, không
phải thần phục nước nào, hứa giúp Hoàng
đế Đại Nam nếu cần, bảo vệ an
ninh trong và ngoài nước.”
Điều khoản số 3 tiếp theo
“Để đáp lại sự
bảo hộ ấy, Hoàng đế Đại Nam từ
nay chịu theo chính sách ngoại giao hiện thời của
nước Pháp.” Nói cách khác, từ nay Việt Nam phải lệ thuộc
nền ngoại giao của Pháp, và không được thần
phục hay giao thiệp với nước khác mà không có sự
đồng ư của Pháp.
Khi
ḥa ước 1874 đă
được hai bên Việt Pháp phê chuẩn và trao
đổi, đại diện Pháp tại Bắc Kinh là De
Rochehouart chuyển bản ḥa ước nầy cho chính phủ
Trung Hoa ngày 24-5-1875. Triều
đ́nh nhà Thanh trả lời rằng: “Chí Giao Chỉ tức Việt Nam bổn hệ Trung
Hoa thuộc quốc.” (nghĩa là: “Từ
[thời] Giao Chỉ đến
Việt Nam vốn là thuộc quốc của Trung Hoa.”) Câu
nầy được ṭa lănh sự Pháp dịch qua Pháp
văn theo nghĩa là: “An Nam
cũng là xứ
được gọi là Việt nam. Xứ nầy từng là nước
thần phục Trung Hoa.” (Yoshiharu Tsuboi, Nước Đại Nam đối
diện với Pháp và Trung Hoa, Nguyễn Đ́nh Đầu
dịch, TpHCM: Ban Khoa học Xă hội, 1990, tr. 142.) Do cách hành văn khác nhau, Trung Hoa
nghĩ rằng họ đă phản đối Pháp,
nhưng Pháp lại cho rằng Trung Hoa chẳng phản
đối ǵ.
Trong
cuộc tiếp xúc với thủ tướng Pháp là Charles
de Freycinet ngày 25-1-1880, đại sứ Trung Hoa tại Pháp
là Tăng Kỷ Trạch khẳng định với Pháp rằng
Việt Nam là chư hầu của Trung Hoa. (Yoshiharu Tsuboi, sđd. tr. 142.) Vua Trung Hoa lúc nầy là Quang Tự
(Kuang-hsu) hay Thanh Đức Tông (Qing Te-tsung, trị 1875-1908)
mới 10 tuổi và bà thái hậu Từ Hy (Tzu-His hoặc Ci
Xi, 1835-1908) giữ quyền nhiếp chính. Tăng
Kỷ Trạch c̣n viết thư ngày 10-11-1880 khi ông đến
St Pétersbourg (Nga), yêu cầu ngoại trưởng Pháp cho
Trung Hoa biết lập trường của Paris về những
biến chuyển ở Bắc Kỳ. Trong thư trả
lời ngày 27-12-1880, ngoại trưởng Pháp Barthélemy St.
Hilaire đáp lại rằng theo điều 2 ḥa ước
1874, Pháp có bổn phận và trách nhiệm với Việt
Nam. Thư nầy
được gởi đến cho Tăng Kỷ Trạch
và chính phủ Trung Hoa. Tăng
Kỷ Trạch cho đại diện Pháp ở St. Pétersbourg
biết rằng Pháp có thể chiếm Trung Kỳ, nhưng
nếu chiếm Bắc Kỳ th́ sẽ gây quan ngại cho
Trung Hoa, v́ vùng nầy tiếp giáp với biên giới Trung
Hoa. Ngoại trưởng Pháp
liền ra lệnh cho viên đại diện Pháp báo cho
Tăng Kỷ Trạch biết rằng từ năm 1874,
ngoài nước Pháp Việt Nam đă hoàn toàn cắt đứt
liên hệ với các nước khác. (Vũ Ngự Chiêu, Các vua cuối nhà Nguyễn
1883-1945, tập 1, Houston: Nxb. Văn Hóa, 1999, tt. 273-274.) Về
phía Việt Nam, dầu đă kư ḥa ước 1874, chịu
nhận nền ngoại giao Pháp, vua Tự Đức vẫn
gởi phái bộ ngoại giao sang Trung Hoa năm 1876, để
chúc mừng vua Thanh Đức Tông (Te-tsung) (trị v́ 1875-1908)
tức vua Quang Tự (Kuang-hsu), lên thay vua Thanh Mục Tông
(Mu-tsung) (trị v́ 1862-1874) tức vua Đồng Trị
(T'ung-chih) từ trần năm 1874.
Tháng 7-1880, vua Tự Đức c̣n cử sứ sang
Trung Hoa thêm lần nữa. Chuyến đi nầy, chẳng những có tính
cách ngoại giao thông lệ bốn năm một lần cống
sứ, mà c̣n để nhờ Trung Hoa giúp đỡ. Năm
sau (1881), Trung Hoa gởi Đường Đ́nh Canh sang kinh
đô Huế bàn chuyện buôn bán, lập chiêu thương
cuộc. Những
sự kiện nầy không thể qua mặt người
Pháp. Khâm sứ Pháp tại Huế là Rheinart
đă báo cáo đầy đủ các chuyến đi sứ
của Việt Nam sang Trung Hoa cho thượng cấp ngày
2-8-1882. (Yoshiharu Tsuboi, sđd.
tt. 298-299.) Về
phía nhà Thanh, tại Bắc Kinh, đại diện Trung Hoa
phản đối với đại sứ Pháp, cho rằng
Việt Nam là thuộc quốc của Trung Hoa và yêu cầu
Pháp rút quân khỏi Bắc Kỳ để duy tŕ t́nh hữu
nghị Hoa Pháp. Tại Paris,
ngày 6-5-1882, đại sứ Tăng Kỷ Trạch cũng
lên tiếng phản đối Pháp và yêu cầu Pháp rút quân. Thủ
tướng Pháp là Freycinet cho rằng lời lẽ của
họ Tăng bất nhă, nên thông báo cho đại sứ
Pháp tại Bắc Kinh tin cho chính phủ Trung Hoa biết rằng
Pháp sẽ không nói chuyện với Trung Hoa và yêu cầu Trung
Hoa đừng xen vào chính sách Pháp ở Bắc Kỳ. (Alfred
Schreiner, Abrégé de l'histoire d'Annam,
Sài G̣n: 1906, tr. 353.) Về
quân sự, ngày 30-6-1882, tổng đốc Vân Nam (Trung Hoa)
loan báo rằng quân đội Trung Hoa sẽ tiến vào lănh
thổ Bắc Kỳ để truy đuổi các thổ
phỉ Cờ đen. Trong tháng sau, tướng Tạ Kính Bưu đem
ba doanh quân Vân Nam đến đóng tại Quản Ty
(Hưng Hóa). [Một doanh khoảng 1,000 quân.] Vào tháng 9, nhà Thanh cử tướng
Hoàng Quế Lan đem mười hai doanh quân đóng ở
các tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng, Thái Nguyên, Bắc
Ninh, và tướng Triệu Ốc đem năm doanh quân
đóng ở Tuyên Quang. Tài liệu Pháp cho rằng số quân Trung Hoa tại
Bắc Kỳ lúc đó lên đến 20,000 người. Dầu vậy, lực
lượng Trung Hoa dần dần bị Pháp đẩy
lui. Trong
thực tế, Trung Hoa điều quân qua Việt Nam nhắm
mưu lợi, chứ chẳng phải thực tâm giúp đỡ
Việt Nam chống Pháp, nên khi thấy không thể chiến
thắng được Pháp, Trung Hoa quay qua thương thuyết
với Pháp để chia phần ở Việt Nam. 2.-
TRUNG HOA ÂM MƯU CHIA HAI BẮC KỲ VỚI PHÁP Ngày
27-10-1882, Paris thông báo cho đại sứ Pháp ở Trung Hoa
là Bourée biết, trong phiên họp ngày 21-10, chính phủ Pháp quyết
định bảo hộ Việt Nam, để Bourée nói
chuyện với Bắc Kinh.
Trước sự cương quyết của Pháp,
vào đầu tháng 11-1882, Lư Hồng Chương (Li Hongzhang
hay Li-Hung-Tchang), một viên chức cao cấp trong Tổng
lư nha môn, cơ quan phụ trách ngoại giao của triều
đ́nh Trung Hoa, đề nghị với Bourée rằng Trung
Hoa và Pháp chia nhau bảo hộ Bắc Kỳ. Bourée báo cáo sáng kiến của Lư Hồng
Chương về Pháp. Lúc
đó, các chính phủ Paris kế tiếp nhau, đều muốn
chiếm Bắc Kỳ nhưng vừa ngại tốn kém v́
Quốc hội Pháp không chuẩn chi, vừa ngại đụng
chạm với Trung Hoa, nên đường lối của
chính phủ Pháp không rơ ràng và hay thay đổi. Ngày 5-12-1882, Bourée cho
Paris biết là Bắc Kinh đă ra lệnh quân Thanh rút khỏi
Bắc Kỳ về Vân Nam và Quảng Tây. Cũng trong ngày nầy,
bộ Hải quân và Thuộc địa Pháp ra lệnh cho
soái phủ Sài G̣n tránh đụng chạm với quân Trung
Hoa. (Vũ Ngự Chiêu, sđd.
tr. 291) Ngày
20-12-1882, tại Thiên Tân (Tianjin hay Tientsin), Bourée và Lư Hồng
Chương kư tạm ước về Bắc Kỳ, theo
đó Trung Hoa chiếm phía bắc sông Hồng (vùng núi non và hầm
mỏ), và Pháp chiếm phía nam sông Hồng (vùng châu thổ, sản
xuất nông phẩm). Lào Cai được xem là một thương cảng
Trung Hoa, nhưng người Pháp được quyền tự
do buôn bán với Vân Nam. (Khối Quân sử, Quân dân Việt Nam chống Tây xâm
(1847-1945), Quân sử III, Sài G̣n: Bộ Tổng tham mưu
Quân lực Việt Nam Cộng Ḥa, 1971, tr. 164.) Tạm ước nầy
thật ra rất mơ hồ, chỉ lấy sông Hồng
chia hai địa phận, nhưng chưa vạch ra cụ
thể ranh giới giữa hai bên Pháp và Trung Hoa ở Bắc
Kỳ. Tuy
nhiên, chẳng bao lâu, tạm ước Thiên Tân bị băi bỏ.
Nguyên tại
Paris, chính phủ Charles Duclerc sụp đổ ngày
22-1-1883. Armand
Fallières tạm thay một thời gian, th́ Jules Ferry trở lại
làm thủ tướng lần thứ hai ngày 21-2-1883. Lúc đó, Pháp dứt khoát về vấn
đề Ai Cập (Egypt) v́ nước nầy đă do
nước Anh đô hộ từ 1882. Jules Ferry dồn nỗ
lực về phía Việt Nam.
Việc
làm đầu tiên của chính phủ Jules Ferry về Việt
Nam là băi bỏ tạm ước Thiên Tân mà Bourée đă kư với Lư Hồng
Chương, v́ theo chính phủ nầy, tạm
ước đă giành cho Trung Hoa quá nhiều quyền lợi
ở Bắc Kỳ. Quyết định băi bỏ được báo
cho Trung Hoa biết ngày 5-3-1883.
Hai tháng sau, đại sứ Bourée bị
triệu hồi. Chính phủ
Pháp đưa Tricou, nguyên đại sứ Pháp tại Nhật
Bản, sang Bắc Kinh làm đại sứ từ ngày
1-6-1883. Ngày
18-8-1883, đại sứ Trung Hoa là Tăng Kỷ Trạch
giao cho chính phủ Pháp lập trường sáu điểm của
Trung Hoa về Bắc Kỳ, theo đó: (1) Ngoại trừ Nam Kỳ, Pháp
không được chiếm bất cứ phần lănh thổ
nào của An Nam; (2) An Nam là chư hầu của Trung Hoa; (3)
Pháp phải triệt binh khỏi
những nơi đă chiếm của An Nam, mở một số
hải cảng để giao thương, và các cường
quốc có quyền đặt ṭa lănh sự tại các cảng
nầy; (4) Sông Hồng phải được mở rộng
để giao thương; (5) Trung Hoa sẽ bảo đảm
việc tự do giao thương trên sông Hồng; (6) Những
ḥa ước giữa Pháp va Việt Nam phải được
Trung Hoa chấp thuận. (Vũ Ngự Chiêu, tt. 328-329.) Trong
khi đó, Pháp đưa quân từ Bắc Kỳ, tiến
đánh cửa Thuận An (Huế) ngày
20-8-1883. Thất bại, triều
đ́nh Huế đành xin điều đ́nh và kư ḥa ước
ngày 25-8-1883, gồm 27 điều khoản, trong đó điều
1 viết rằng “Nước
Nam nhận và chịu sự bảo hộ của nước
Pháp với những hậu quả của mối
tương giao nầy theo luật pháp ngoại giao Âu Châu,
nghĩa là nước Pháp chủ trương mọi sự
giao thiệp của nước Nam với các nước
ngoài, kể cả nước Tàu, và nước Nam có giao
thiệp ngoại giao với nước nào th́ chỉ do một
ḿnh nước Pháp môi giới mà thôi.” Bảo
hộ xong Việt Nam, hai ngày sau, ngoại trưởng Pháp
từ chối yêu cầu sáu điểm của Trung Hoa trong
thư trả lời ngày 27-8, và cho Trung
Hoa biết rằng Pháp sẵn sàng giải quyết vấn
đề an ninh biên giới và quyền lợi người
Hoa buôn bán trên sông Hồng. Ngoại
trưởng Pháp c̣n gởi công văn ngày 15-9-1883 cho chính phủ
Trung Hoa, một lần nữa xác nhận rằng Pháp không
chấp nhận tạm ước Thiên Tân ngày 20-12-1882, giữa đại sứ
Bourée và Lư Hồng Chương về Bắc Kỳ. Công văn ngày 15-9 c̣n đưa ra
đề nghị mới của Pháp gồm hai điểm:
(1) Lập một khu phi quân sự giữa hai vĩ tuyến
21 và 22, nếu một bên muốn động binh để
đánh dẹp thổ phỉ th́ phải có sự đồng
ư của bên kia. (2) Thị trấn Man Hao trên sông Hồng
trong lănh thổ Trung Hoa sẽ được mở ra cho việc
giao thương. Chính sách của chính phủ Jules Ferry được
Quốc hội Pháp hậu thuẫn mạnh mẽ trong cuộc
đầu phiếu tại Quốc hội ngày 31-10-1883.
(Vũ Ngự Chiêu, sđd.
tt. 330-332.) Hai
chính phủ Pháp Hoa tranh căi không dứt về vấn đề
Bắc Kỳ. Pháp muốn độc quyền tại
miền Bắc Kỳ, trong khi Trung Hoa muốn chia một phần
Bắc Kỳ cho Trung Hoa, và bảo đảm an toàn biên giới Việt Hoa. Trung Hoa tin tưởng
rằng Pháp khó có thể chiến thắng lực lượng
Trung Hoa ở Bắc Kỳ.
Ngoài ra, Trung Hoa c̣n hy vọng hai nước Anh và Đức
sẽ can thiệp, nhưng lúc đó, Anh đang bận rộn
ở Ai Cập và Đức muốn Pháp bành trướng ở
Bắc Kỳ hơn là tập trung lực lượng
để chống Đức ở biên giới giữa hai
bên. Cuối
cùng, tại Bắc Kỳ, Pháp đă đánh đuổi quân
Trung Hoa và quân Cờ đen chạy lên miền biên giới,
làm chủ t́nh h́nh Bắc Kỳ.
Lúc đó, Trung Hoa thấy không thể kiếm lợi
được ở Việt Nam mà c̣n lo ngại Pháp sẽ tiến
chiếm Đài Loan hay Hải Nam để đ̣i chiến
phí, nên Trung Hoa bắt đầu thay đổi chính sách. 3.-
HIỆP ƯỚC THIÊN TÂN LẦN THỨ NHỨT
(11-5-1884) Đầu
tiên, Lư Hồng Chương, nhờ một thân hữu tên là
Detring, người Đức, công chức cao cấp trong
ngành thương chánh Trung Hoa và đă phục vụ 20
năm ở Quảng Châu, vận động với chính phủ
Pháp. Vào tháng 4-1884, Detring đem
việc nầy thảo luận với một người
bạn là trung tá Ernest François Fournier, hạm trưởng tuần
dương hạm Volta,
đang đóng ở Quảng Đông. Fournier tŕnh bày lại
ư định của Lư Hồng Chương với cấp
chỉ huy là phó đô đốc Lespès, tư lệnh hạm
đội Pháp tại Trung Hoa và Nhật Bản. Một mặt, Lespès
thuận cho Fournier nói chuyện với Lư Hồng
Chương, một mặt Lespès tŕnh về Paris. Fournier
nhờ Detring chuyển cho Lư Hồng Chương một
văn thư cho biết các điều kiện về phía
Pháp để đi đến một cuộc dàn xếp với
Trung Hoa: giải nhiệm đại sứ Tăng Kỷ Trạch,
từ bỏ ưu quyền đối với Việt Nam,
rút lui quân đội Trung Hoa khỏi Bắc Kỳ, và bồi
hoàn chiến phí. (Alfred Schreiner, sđd.
tt. 371-372.) Để
tỏ thiện chí, triều đ́nh Trung Hoa quyết định
chấm dứt nhiệm vụ đại sứ ở Pháp
của Tăng Kỷ Trạch, mà vẫn giữ ông ta làm
đại sứ ở Anh; và Trung Hoa cử Hứa Cảnh
Trừng làm đại sứ tại Pháp, Đức, Ư, Ḥa
Lan và Áo. Cuộc
nói chuyện tiếp tục, Fournier đến Thiên Tân, gặp
Lư Hồng Chương và nhanh chóng kư hiệp ước ngày
11-5-1884, gồm năm khoản, thường được
gọi là hiệp ước Fournier
hay hiệp ước Thiên
Tân, đại để như sau: 1) Pháp hứa tôn trọng biên giới
Việt Hoa. 2) Trung Hoa cam kết rút quân khỏi Bắc
Kỳ và tôn trọng những ḥa ước kư kết giữa
Pháp và Việt Nam. 3) Pháp không đ̣i bồi thường
chiến phí. 4) Hủy bỏ những hiệp
ước trước đây giữa Trung Hoa và Việt
Nam, và nuớc Pháp cam kết không làm tổn hại thể
diện Trung Hoa. 5) Hai bên thỏa thuận sẽ gặp
nhau lại trong ṿng 90 ngày để kư kết hiệp ước
chính thức. Ernest
F. Fournier tiếp tục thương lượng với Lư
Hồng Chương về thời biểu Trung Hoa rút quân.
Ngày 17-5, Fournier trao cho Lư Hồng Chương một
giác thư (mémorandum) theo đó Pháp sẽ
tiếp thu Lạng Sơn, Cao Bằng ngày 5-6-1884, và Lào Cai
ngày 1-7-1884. (Alfred Schreiner, sđd.
tr. 362.) Nhận
được tin nầy, trung tướng Millot, tư lệnh
lực lượng Pháp ở Bắc Kỳ nghĩ rằng
Pháp có thể chiếm đóng vùng Lạng Sơn, Cao Bằng
khoảng từ 15 đến 20-6, nên ông cử quân đi tiếp
thu Lạng Sơn. Trên
đường đi Lạng Sơn, ngang qua thị trấn
Bắc Lệ ngày 22-6, đoàn quân Pháp bị quân Trung Hoa tấn
công dữ dội và gây thiệt hại nặng nề. Chính
phủ Paris được tin vụ Bắc Lệ, liền
ra lệnh cho đại diện Pháp ở Bắc Kinh gởi
cho triều đ́nh Măn Thanh một tối hậu thư ngày
12-7, yêu cầu Trung Hoa phải ra lệnh quân đội ḿnh
lập tức rời Bắc Kỳ, hạn chót là 31-7, và
triều đ́nh Trung Hoa phải bồi thường 250 triệu
quan chiến phí, nếu không Pháp sẽ đánh Trung Hoa. Phó
đề đốc Courbet, đang chỉ huy hạm đội
Pháp ở Bắc Kỳ, được cử kiêm luôn chỉ
huy hạm đội Pháp ở Trung Hoa, đem quân đến
cửa sông Mân ở Phúc Châu (Fou-Tchéou), thủ phủ tỉnh
Phúc Kiến (Fukien) ngày 16-7, trong khi một hạm đội
Pháp khác đến đảo Cơ Long (Kélung) ở eo biển
Đài Loan. Ngày
5-8-1884, Pháp bắt đầu tấn công, gây thiệt hại
nặng cho Trung Hoa. Trên
biển, hạm đội Pháp truy lùng và tấn công các tàu của
Trung Hoa, phong tỏa cửa sông Dương Tử (Yang-tse),
vùng Thượng Hải, và cho đến cuối tháng
3-1885, Pháp làm chủ hoàn toàn quần đảo Bành Hồ
(Pescadores) ở eo biển Đài Loan. (Quân sử III, tt. 227-228.) 4. HIỆP ƯỚC THIÊN TÂN LẦN
THỨ HAI (9-6-1885) Trong
khi Pháp khó thắng Trung Hoa, th́ rơ ràng Trung Hoa thất thế
cả ở Trung Hoa lẫn ở Bắc Kỳ. Cả hai bên Pháp và
Trung Hoa đều muốn t́m kiếm một giải pháp
ḥa b́nh v́ hoàn cảnh riêng của mỗi bên. Sau những cuộc
thảo luận kéo dài, hai bên dự tính đi đến việc
kư kết ḥa ước vào cuối tháng 3-1885, th́ chính phủ
Jules Ferry sụp đổ.
Chính phủ Brisson lên thay thế. Bộ trưởng
ngoại giao vẫn là Charles Freycinet. Cuộc
đàm phán về một ḥa ước mới bắt đầu
tại thành phố Thiên Tân từ ngày 13-5-1885 giữa hai bên
Pháp-Hoa; kết thúc bằng Hiệp
ước hoà b́nh, hữu nghị và thương mại
kư ngày 9-6-1885 giữa Jules Patenôtre (đại diện Pháp) và
Si Tchen, Lư Hồng Chương và Teng Tcheng Sieou (đại
diện Trung Hoa). Ḥa ước
Thiên Tân lần thứ hai nầy
gồm 10 điều khoản, có thể được tóm
lược như sau: Trung
Hoa đồng ư rút quân về nước (điều 1).
Trung Hoa nh́n nhận việc Pháp bảo hộ
Việt Nam (điều 2).
Hai bên sẽ tiếp tục ḥa đàm về
vấn đề biên giới Việt Hoa (điều 3).
Hai bên sẽ thảo luận về một hiệp
ước thương mại (điều 5, 6, 8). Pháp đồng ư rút quân khỏi Đài Loan và Bành Hồ
(điều 9). Như thế là chiến tranh Pháp Hoa về vấn
đề Bắc Kỳ kết thúc. Bắc Kinh gởi một phái
đoàn đến Hà Nội để giúp chấm dứt
tranh chấp Pháp Hoa, và đưa quân đội nhà Thanh trở
về Trung Hoa. KẾT
LUẬN Dầu
Việt Nam, quốc hiệu của nước ta từ khi
vua Gia Long lên ngôi năm 1802, là một nước độc
lập, Trung Hoa vẫn mặc nhiên xem Trung Hoa là thượng
quốc và có ưu quyền với Việt Nam. Khi người Pháp xuất hiện,
Trung Hoa tự xem có quyền thương lượng với
Pháp về Việt Nam, chia phần
với Pháp và quyết định số phận Việt
Nam. Cho đến khi bị
Pháp đánh bại, Trung Hoa đành nhượng bộ,
nhưng vẫn không từ bỏ định kiến “thượng
đẳng” đối với Việt Nam, và chờ đợi
cơ hội để tái lập quyền lực hoặc
mưu cầu quyền lợi trên đất nước Việt
Nam. Cơ hội
đó là việc giải giới quân đội Nhật Bản
ở Đông Dương sau thế chiến thứ hai, vào
năm 1945. TRẦN
GIA PHỤNG (Toronto,
24-6-2018) |