VIỆT MINH CƯỚP
CHÍNH QUYỀN Ở HÀ NỘI
THÁNG 8-1945
Trần Gia Phụng Ngày nay, các biến
cố tháng 8-1945 thường được sách báo của
cộng sản (CS) gọi là “cuộc cách mạng tháng 8”. Tuy nhiên, vào lúc đó,
chính người CS tự hào là đă “cướp chính quyền”. Điều nầy
sách vở CS c̣n lưu truyền và những thường dân
lớn tuổi hiện c̣n sống xác nhận. Mở đầu chuỗi
biến cố nầy là cuộc cướp chính quyền ở
Hà Nội ngày 19-8-1945. 1. O.S.S. HUẤN LUYỆN VIỆT
MINH Nguyên tại
Cao Bằng, ngày 11-11-1944, một phi cơ trinh sát Hoa Kỳ bị
hỏng máy ở biên giới Hoa-Việt. Trung uư phi công Rudolph Shaw nhảy dù
ra khỏi phi cơ và một đơn vị VM t́m
được. Họ
đưa Shaw đến gặp Hồ Chí Minh (HCM), đang có
mặt ở Pắc Bó, xă Trường Hà, châu Hà Quảng, tỉnh
Cao Bằng. (William Duiker, Ho Chi
Minh a life, New York: Hyperion, 2000, tt. 282-283.) Từ lâu HCM
muốn t́m cách liên lạc với người Hoa Kỳ
để nhờ giúp đỡ, nên nhân cơ hội nầy
HCM đích thân đưa phi công Rudolph Shaw đến căn
cứ Hoa Kỳ tại Côn Minh (Kunming) tỉnh Vân Nam (Yun
Nan)), trả lại cho quân đội Hoa Kỳ. Hồ Chí Minh xin tiếp kiến
thiếu tướng Claire L. Chennault, tư lệnh Không
đoàn 14 của Hoa Kỳ tại Hoa Nam, nhưng bị từ
chối. (R. Bartholomew-Feis, The OSS and Ho Chi
Minh, Unexpected Allies in the War
against Japan, University Press of Kansas, 2006, tr. 111.) Lúc đó, người
Hoa Kỳ nghi ngờ HCM và VM là cộng sản. Tuy nhiên, sau
khi quân đội Nhật đảo chánh người Pháp ở
Đông Dương ngày 9-3-1945, bộ phận t́nh báo Đồng
minh ở Đông Dương hoàn toàn tê liệt. Trong lúc t́nh h́nh biến chuyển, quân
đội Hoa Kỳ rất cần tin t́nh báo từ bên trong
nước Việt Nam và muốn O.S.S. mở cơ sở
hoạt động ở Hà Nội và Sài G̣n. Cơ quan O.S.S. tức
Office of Strategic Services (Sở t́nh báo chiến lược) là
tổ chức tiền thân của CIA (Central Intelligence
Agency). V́ vậy
người Hoa Kỳ thay đổi thái độ đối
với HCM. Quân đội
Hoa Kỳ muốn nhờ VM cung cấp tin tức hoạt
động của quân Nhật ở bên trong Đông
Dương. (Archimedes L. A. Patti, Why
Viet Nam?, California: University of California Press, 1980, tr. 83.) Ngày 9-3-1945,
Nhật đảo chánh Pháp th́ ngày 17-3-1945, trung uư Charles Fenn,
sĩ quan O.S.S., lần đầu tiên gặp HCM tại Côn
Minh (Kunming). Cùng
có mặt với HCM là Phạm Văn Đồng. V́ Phạm Văn
Đồng không biết tiếng Anh, nên cả ba trao đổi
với nhau bằng tiếng Pháp. Fenn tỏ ư quan ngại
rằng VM là một nhóm CS, th́ HCM trả lời rằng Pháp
chụp mũ tất cả những người yêu nước
chống Pháp đều là CS.
Fenn cho HCM biết là người Mỹ
muốn thiết lập những trạm liên lạc vô tuyến
bên trong Đông Dương.
Đáp lại, HCM sẵn sàng hợp tác với điều
kiện phía O.S.S. giúp đỡ vơ khí và thuốc men. (R.
Bartholomew-Feis, sđd. tt.
154-155.) Ba ngày sau
(20-3-1945), hai bên gặp nhau lần thứ hai, bàn chuyện
HCM trở về Việt Nam, thiết lập những trạm
t́nh báo, trang bị máy vô tuyến của O.S.S., và O.S.S. sẽ
huấn luyện chuyên viên người Việt. (Chính Đạo, Hồ Chí Minh, con người
& huyền thoại, tập 2: 1925-1945, Houston: Nxb.
Văn Hóa, tr. 355.) Charles Fenn
đặt cho HCM một bí danh bằng tiếng la-tinh là
Lucius. Trong tiếng la-tinh,
Lucius là tên đàn ông. Lucia là tên phụ nữ. Cả hai tên đều do chữ “Lux”
mà ra. “Lux” nghĩa là ánh
sáng. Có thể Fenn đặt
tên nầy cho HCM v́ “Minh” có nghĩa là sáng. Năm 1938, khi đến Diên An
(Thiểm Tây, Trung Hoa), cộng tác với đảng CS Trung
Hoa, Nguyễn Ái Quốc có tên là Hồ Quang, mà Quang cũng có
nghĩa là sáng hay ánh sáng. Ngày 27-4-1945,
thiếu tá Archimedes L. A. Patti, trưởng toán O.S.S. 202,
đóng trụ sở tại Côn Minh (Vân Nam), đến
Tĩnh Tây (Jingxi), tỉnh Quảng Tây, gần biên giới
Hoa Việt, gặp HCM và Lê Tùng Sơn. Từ đây, O.S.S.
chính thức hợp tác với HCM và VM. Ngày 16-7-1945,
Archimedes Patti gởi một toán t́nh báo hỗn hợp Mỹ-Pháp,
do thiếu tá Allison K. Thomas chỉ huy, gồm 6 người,
nhảy dù xuống làng Kim Lộng (Tân Trào, Tuyên Quang). Toán t́nh báo nầy bắt tay ngay vào việc, lập một phi trường
tạm thời cho phi cơ nhỏ hạ cánh, chọn 100
cán bộ VM để huấn luyện. (Chính Đạo, sđd. tt. 358-359.) Để
mua chuộc toán t́nh báo O.S.S., HCM sử dụng cả mỹ
nhân kế. Có lần, đang đêm HCM gởi
những cô sơn nữ trẻ đẹp đến với
mục đích “phục vụ” nhân viên t́nh báo Hoa Kỳ,
nhưng v́ kỷ luật tổ chức, các nhân viên nầy
đă từ chối. (Douglas Martin, New York Times, April 17, 2013.) 2. VIỆT MINH CHUẨN BỊ Nhờ hợp
tác với O. S. S., HCM biết tin Nhật Bản đầu
hàng, và nhứt là tin quân Trung Hoa cùng quân Anh sẽ vào Việt
Nam giải giới quân đội Nhật theo tối hậu
thư Potsdam ngày 26-7-1945. Hồ Chí Minh liền triệu tập
đại hội đảng Cộng Sản Đông
Dương (CSĐD) ở Tân Trào (huyện Sơn
Dương, tỉnh Tuyên Quang) từ ngày 13 đến ngày
15-8-1945, thành lập “Uỷ Ban Khởi Nghĩa Toàn Quốc”
và ra quân lệnh số 1, phát động cuộc tổng khởi
nghĩa, cướp chính quyền ở khắp các tỉnh
trong nước, tạo sẵn chính quyền để
đối phó với quân đội Trung Hoa và quân đội
Anh. Toán 100 cán bộ
VM do O.S.S. huấn luyện và trang bị vơ khí, chưa bắt
tay vào hoạt động chống Nhật tại Đông
Dương, th́ Nhật đầu hàng ngày 14-8-1945, sau khi Hoa
Kỳ thả hai quả bom nguyên tử xuống hai thành phố Nhật Bản là Hiroshima ngày
6-8-1945 và Nagasaki ngày 9-8-1945. Toán
cán bộ nầy không c̣n lo đối phó với người
Nhật nữa, sẵn sàng cho việc nổi dậy cướp
chính quyền. Lúc đó, đảng
CSĐD do HCM lănh đạo, chưa có bộ chính trị, chỉ
có ban chấp hành trung ương đảng, khoảng
dưới 20 người, tổng bí thư
là Đặng Xuân Khu (Trường Chinh). Tổng số đảng
viên CS lúc đó trên toàn quốc khoảng 5,000 người.
(Philippe Devillers, Histoire du Viêt-Nam
de 1940 à 1952, Editions Du Seuil, Paris 1952, tr. 182.) Sau hội
nghị của đảng CSĐD, HCM tổ chức “đại
hội đại biểu quốc dân” ngày 16-8-1945 cũng tại
Tân Trào, gồm khoảng 60 đại biểu, mà VM nói là
đại diện các đảng phái, các đoàn thể,
các tôn giáo, các sắc dân trên toàn quốc. Thực chất chỉ
gồm cán bộ VMCS và những người thân VMCS. Đại hội
tuyên bố tán thành chủ trương phát động tổng
khởi nghĩa của đảng CSĐD, và thành lập “Uỷ
Ban Dân Tộc Giải Phóng Việt Nam”, có tính cách như chính
phủ cách mạng lâm thời, với thành phần gồm
toàn những người của VMCS như sau: Hồ Chí
Minh (chủ tịch), Trần Huy Liệu (phó chủ tịch).
Các uỷ viên: Nguyễn Lương Bằng, Đặng
Xuân Khu (Trường Chinh),Vơ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng,
Dương Đức Hiền, Chu Văn Tấn, Nguyễn
Văn Xuân, Cù Huy Cận, Nguyễn Đ́nh Thi, Lê Văn Hiến,
Nguyễn Chí Thanh, Phạm Ngọc Thạch, Nguyễn Hữu
Đang. Thường trực:
Hồ Chí Minh, Trần Huy Liệu, Phạm Văn Đồng,
Nguyễn Lương Bằng, Dương Đức Hiền.
(Tô Tử Hạ và nhiều tác giả, 60 năm chính phủ Việt Nam
1945-2005, Hà Nội: Nxb. Thông Tấn, 2005, tr. 17.) Trong khi
đó, tại Hà Nội, ngày 11-8-1945, ban chấp hành mặt
trận Đại Việt Quốc Gia Liên Minh (ĐVQGLM) gồm
các đảng Đại Việt là Đại Việt Quốc
Dân Đảng (Trương Tử Anh), Đại Việt
Quốc Xă Đảng (Nguyễn Xuân Tiếu), Đại Việt
Duy Dân Đảng (Lư Đông A), Đại Việt Dân Chính
Đảng (Nguyễn Tường Tam), tổ chức phiên
họp khoáng đại để quyết định
đường lối hành động trong t́nh h́nh mới. Trong hội nghị
nầy, xảy ra hai nhóm ư kiến đối nghịch nhau. Trương
Tử Anh, Chu Bá Phượng và người đại diện
của Nguyễn Tường Long (bị đau, phải nằm
bệnh viện) chủ trương rằng không nên hợp
tác với Nhật v́ làm như thế sẽ chống với
Đồng minh. Trái lại, Nguyễn Xuân Tiếu (Nguyễn
Lư Cao Kha) cho rằng nên dựa vào thế lực Nhật chiếm
chánh quyền, rồi đợi các lực lượng quốc
gia hải ngoại trở về lập chính phủ. Hội nghị
đang thảo luận th́ đại diện của VM xuất
hiện, đề nghị không nên đảo chính, đợi
quân Đồng minh.
Đại diện VM quan ngại rằng ĐVQGLM
giành trước thời cơ, nên đe dọa rằng nếu
ĐVQGLM cương quyết chiếm chính quyền ở
Hà Nội, th́ VM sẽ cướp chính quyền ở các tỉnh,
phá đê sông Hồng, cô lập Hà Nội. Từ đó, hội
nghị hoang mang và giải tán, không đi đến một
quyết định nào. (Hoàng Văn
Đào, Việt Nam Quốc Dân
Đảng, Sài G̣n: 1970, tr. 247.) 3. VIỆT MINH CƯỚP CHÍNH QUYỀN
Ở HÀ NỘI Đang lúc
t́nh h́nh Hà Nội và Bắc bộ (Bắc kỳ) xáo trộn,
vào tháng 8-1945, chính phủ Trần Trọng Kim cử bộ
trưởng Hoàng Xuân Hăn ra Bắc thay mặt chính phủ giải
quyết tại chỗ những vấn đề khẩn
cấp. [Chữ Bắc bộ do chính phủ Trần Trọng
Kim đặt.] Sau khi gặp
các yếu nhân Hà Nội, Hoàng Xuân Hăn gởi điện về
Huế, đề nghị lập một cơ cấu chính
trị gọi là Uỷ ban Giám đốc Chính trị miền
Bắc (Comité directeur de la politique du Nord). Ngày 16-8-1945,
uỷ ban nầy nhận việc, gồm có: bác sĩ Nguyễn
Xuân Chữ (chủ tịch) và bốn uỷ viên là Phan Kế
Toại, Trần Văn Lai, Đặng Thai Mai, Nguyễn
Tường Long. Cùng trong ngày
16-8-1945, phía CS tổ chức hai cuộc họp quan trọng:
1) Tại Tân Trào, HCM tổ chức “đại hội đại
biểu quốc dân”, tán thành chủ trương tổng khởi
nghĩa của đảng CSĐD. (Đă viết
ở trên). 2) Đại hội bất thường
thành ủy CS Hà Nội, quyết định tổng khởi
nghĩa, thành lập “Ủy ban khởi nghĩa” do Nguyễn
Khang làm chủ tịch. (Chính Đạo, Việt Nam niên biểu 1939-1975 (Tập A: 1939-1946),
Houston: Nxb. Văn Hóa, 1996, tt. 243-244.) Ở Hà Nội,
ngày 17-8, tổng hội công chức tổ chức cuộc
mít-tinh tại Nhà hát lớn, nhằm ủng hộ chính phủ
Trần Trọng Kim. Trong khi các diễn giả đang nói chuyện ở
Nhà hát lớn, th́ một người nào đó ở trên lầu
quăng xuống một lá cờ đỏ sao vàng của
VM. (Về
sau, người ta mới biết người nầy là Trần
Lâm, tên thật là Trần Quang Vận, đảng viên CS.) Thế là người của VM
giương cao lá cờ nầy lên và mọi người
cùng nhau theo người dẫn đầu,
biểu t́nh ủng hộ VM. Lúc đó, VM
tung cán bộ đe dọa và cô lập các nhân vật chính phủ,
như khâm sai Bắc bộ là Phan Kế Toại, đô
trưởng Hà Nội là Trần Văn Lai, chủ tịch
Uỷ ban Giám đốc Chính trị miền Bắc mới
được thành lập chưa được một
tuần là bác sĩ Nguyễn Xuân Chư. (Nguyễn Xuân Chữ,
Hồi kư, Houston: Nxb. Văn
Hóa, 1996, tr. 280.) Phan Kế Toại
có thể đă theo VM v́ con là Phan Kế Bảo,
một cán bộ VM. Trần
Văn Lai bận việc ở ṭa đô trưởng, Đặng
Thai Mai hoàn toàn không ra mặt, Nguyễn Tường Long bị
bệnh chưa làm việc được. Ngày 19-8, VM tổ
chức biểu t́nh, chiếm Bắc bộ phủ (phủ
toàn quyền Pháp cũ), cướp chính quyền Hà Nội. Có thể nói VM làm chủ
được Hà Nội từ ngày 20-8-1945, nhưng những
cuộc bạo động vẫn tiếp diễn. Bạo động bắt nguồn
từ cả hai phía: bạo
động của VM tiêu diệt những phần tử
đối kháng; bạo động của những đảng
phái đối lập chống lại VM. Tại Hà Giang, Vĩnh Yên và Hà
Đông, VM gặp sự kháng cự mạnh mẽ của
các chiến sĩ Việt Nam Quốc Dân Đảng. (Hoàng
Văn Đào, sđd. tr.
258.) Ngày 21-8-1945,
VM vận động các đoàn thể họp mít-tinh tại
Hà Nội. Cuộc mít-tinh lập ra một kiến
nghị gồm ba điểm: 1) Yêu cầu
vua Bảo Đại ở Huế thoái vị và giao quyền
cho một chính phủ lâm thời do mặt trận VM thành lập.
2) Yêu cầu
VM thảo luận với các đảng phái để lập
chính phủ lâm thời. 3) Yêu cầu
tất cả các đảng phái, các tầng lớp dân chúng
ủng hộ chính phủ lâm thời để củng cố
nền độc lập quốc gia. Bản kiến
nghị được chuyển bằng điện tín về
Huế.
(Philippe Devillers, sđd.,
tr. 137.) Về phía Nhật,
tại bộ tham mưu Quân đoàn 38 của Nhật,
người Nhật chủ trương rằng quân đội
Nhật bại trận, nhưng sẽ không nhượng chỗ
cho quân Đồng minh thắng trận, mà chỉ nhượng
cho những ai có khả năng tiếp tục nhiệm vụ
lịch sử của Nhật Bản, là giải phóng châu Á
ra khỏi tay thực dân da trắng. (Philippe Devillers, sđd., tr.
136.) V́ vậy,
khi Nhật Bản đầu hàng, quân đội Nhật tại
Đông Dương hạ vơ khí, rút lui vào các căn cứ
quân sự, chờ ngày bị giải giới, để cho
người Việt tự do hành động trước
khi quân Đồng minh có mặt.
Trong khi
đó, chính phủ Trần Trọng Kim không có bộ Quốc
pḥng, không có lực lượng vơ trang để giữ ǵn
an ninh. (Lệ Thần Trần Trọng
Kim, Một cơn gió bụi,
Sài G̣n: Nxb. Vĩnh Sơn, 1969, tt. 57-58.) Thời gian nầy là cơ hội
thuận tiện cho lực lượng VM tung hoành, không bị
ai chận đứng. Ngoài sự
giúp đỡ của O.S.S., sự bất động của
quân Nhật, đây cũng là một trong những lư do giải
thích v́ sao chỉ với một lực lượng dưới
5,000 đảng viên mà VMCS cướp được chính
quyền. KẾT LUẬN Tóm lại,
những đảng phái Việt Nam thời năm 1945 theo hai khuynh hướng chính trị rơ rệt:
những đảng phái theo chủ trương dân tộc
một bên và đảng Cộng Sản Đông Dương
một bên. Những đảng
phái theo chủ trương dân tộc muốn nhờ Nhật
để chống Pháp giành độc lập, phục vụ
đại nghĩa quốc gia, nhưng thiếu tổ chức,
thiếu tuyên truyền và nhất là thiếu thông tin để
lượng định t́nh h́nh quốc tế. Nhật đang trên
đà thất bại mà vẫn không biết, và lại c̣n muốn
nhờ Nhật giành độc lập. V́ vậy Đồng
minh và Hoa Kỳ không tin tưởng và không liên lạc với
các đảng phái nầy.
Cơ quan t́nh báo O.S.S. (Hoa Kỳ) quay qua
liên lạc với HCM và VMCS.
Mặt trận
VM là tổ chức ngoại vi của đảng CSĐD, sử
dụng chiêu bài bảo vệ dân tộc, chống Pháp và chống
Nhật, để tuyên truyền, lôi kéo quần chúng, hoạt
động uyển chuyển theo từng hoàn cảnh. Do chủ trương chống Nhật,
HCM và VM được O.S.S. cộng tác và được
O.S.S. giúp đỡ, huấn luyện, trang bị vơ khí, thông
báo tin tức thời sự. Toán
cán bộ VM do O.S.S. huấn luyện và vơ trang nhằm mục
đích chống Nhật, nhưng Nhật đầu hàng, nên
trở thành ṇng cốt cho cuộc nổi dậy của VM. Cũng nhờ
O.S.S., HCM và VM cùng đảng CSĐD biết được
tin Nhật Bản sẽ đầu hàng Đồng minh, tin
quân đội Trung Hoa và Anh sẽ vào Đông Dương giải
giới quân đội Nhật.
Việt Minh liền nhanh tay cướp chính quyền ở
Hà Nội và thành lập chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng
Ḥa ngày 2-9-1945, tạo ra t́nh trạng chính trị đă rồi
trước khi quân đội Trung Hoa và quân đội Anh
đến Việt Nam. TRẦN GIA
PHỤNG (Toronto,
19-8-2017) |