CÁI CHẾT CỦA HÙM THIÊNG YÊN
THẾ
Trần Gia Phụng
Yên Thế là một vùng đồi núi thấp
ở trung du Bắc phần, nằm cách Hà Nội khoảng
50 cây số về phía đông bắc, giữa rặng Cai
Kinh ở phía bắc, thượng lưu sông Cầu ở
phía tây và thượng lưu sông Thương ở phía
đông. Vào thời nhà Nguyễn, Yên
Thế thuộc tỉnh Bắc Ninh. Qua thời Pháp thuộc, Yên Thế thuộc về
Bắc Giang cho đến ngày nay. Phía bắc
Yên Thế (Yên Thế thượng) cao khoảng từ 100
đến 150 mét, trong khi càng xuống phía nam, càng thoai
thoải, nhiều đồng ruộng. Ở Yên Thế, rừng cây rậm rạp, um tùm,
rất tiện lợi cho việc ứng dụng du kích
chiến chống Pháp. Khí hậu
tại đây quanh năm ẩm thấp, sương mù, có
nhiều loại muỗi truyền bịnh sốt rét
chết người và nhiều thú dữ.
Từ năm 1888, Pháp cho làm đường xe lửa từ Hà Nội đi Lạng
Sơn, để nối liền với con
đường sắt sang Quế Lâm (Quảng Tây, Trung
Hoa). Con đường nầy có một
đoạn khá dài từ Phủ Lạng Thương
đến Lạng Sơn, chạy dọc phía đông
của vùng Yên Thế. Công tŕnh nầy
phải mất 7 năm mới hoàn thành. (Paul
Chack, Hoang-Tham Pirate, Paris: Les Éditions de France, 1933,
tr. 7.)
Yên Thế một thời là
địa bàn chiến khu chống Pháp của hai nhân
vật lẫy lừng là Hoàng Đ́nh Kinh và Hoàng Hoa Thám.
(Nguồn: Phỏng theo
Paul Chack, Hoang-Tham Pirate,
Paris, Les éditions de France, 1933, tt. 8-9.)
1.- XUẤT THÂN CỦA ĐỀ THÁM
Hoàng Đ́nh Kinh, một cai
tổng ở tỉnh Bắc Giang, nổi lên hùng cứ Yên
Thế năm 1885, nhưng thất bại, nên bỏ
trốn sang Trung Hoa năm 1886. Năm 1887, Cai Kinh trở
về, lập căn cứ ở vùng núi Đồng Năi,
phía bắc Yên Thế. Ông rất nổi danh, nên
cả vùng núi nơi ông lập
căn cứ được gọi là rặng Cai
Kinh. Cai Kinh bị ám sát chết khoảng tháng 8-1888. Người ta không biết ai là thủ phạm. Lúc bấy giờ, các thuộc hạ của Cai
Kinh chia nhau đóng giữ vùng Yên Thế và các vùng lân
cận.
Pháp tiếp tục tấn công và
cuối cùng Pháp chiếm được toàn bộ vùng Yên
Thế. Một
số thủ lănh nghĩa quân đem lính của ḿnh lần
lượt ra đầu thú với Pháp, như đề
Toán (13-4-1892), đề Kiều (16-4-1892), và đề
Sặt (20-4-1892). Tính đến ngày 1-6-1892, có
tất cả 193 nghĩa quân mang theo 144
súng trường và 21 súng lục (súng sáu viên) ra quy thuận
với Pháp. Sau vụ nầy, Hoàng Hoa
Thám nổi lên thành lănh tụ chống Pháp chính của Yên
Thế. (Paul Chack, sđd. tr. 17.)
Lúc nhỏ Hoàng Hoa Thám tên là Trương Văn
Nghĩa, con của ông Trương Văn Thận và bà
Lương Thị Minh, gốc làng Dị Chế, huyện
Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên. Tác
giả Paul Chack cho biết khi Pháp đánh chiếm Hà Nội
lần thứ hai năm 1882, Hoàng Hoa Thám được 20
tuổi. Vậy Hoàng Hoa Thám có
thể sinh 1862. Cha mẹ chết sớm, ông theo người chú đến sống ở
làng Trũng, phủ Yên Thế, tỉnh Bắc Ninh.
Khi Pháp chiếm Hà Nội năm 1882,
Trương Văn Nghĩa gia nhập đạo quân
chống Pháp của lănh binh Bắc Ninh là Trần Quang Loan. Sau đó, Nghĩa theo Thân Bá Phúc, phó tướng của cai
tổng Hoàng Đ́nh Kinh, tức Cai Kinh. Bá Phúc
nhận Nghĩa làm con nuôi. Bá Phúc và Nghĩa đi theo Cai Kinh khi Cai Kinh bỏ trốn sang Trung
Hoa năm 1886. Cai Kinh rất quư mến tài trí
của Nghĩa, cho đổi qua họ của ḿnh là
họ Hoàng, đặt tên là Hoàng Hoa Thám, và phong chức chánh
đề đốc, nên Hoàng Hoa Thám được gọi
là Đề Thám.
2.- HOẠT ĐỘNG CỦA
ĐỀ THÁM
Sau khi Cai Kinh bị ám sát năm 1888 và một
số lănh tụ Yên Thế đầu hàng Pháp năm 1892,
Đề Thám cho tái lập nhiều căn cứ ở Nhă
Nam. Từ đây, Pháp tập trung chú ư
vào Đề Thám. Pháp tiếp
tục chiêu dụ các lănh tụ nghĩa quân. Tháng
2 năm 1894, Bá Phúc, cha nuôi của Đề Thám, đóng
căn cứ ở Luộc Hạ, dẫn một số
thuộc hạ ra đầu thú với Pháp. Pháp
liền sử dụng Bá Phúc để ám sát Đề
Thám. Tháng 4 năm 1894, Bá Phúc mời Đề Thám
cùng một viên quan đại diện cho tổng
đốc Bắc Ninh là Lê Hoan, đến Luộc Hạ
để bàn thảo điều kiện cho Đề Thám
quy hàng. Khi gặp nhau, Bá Phúc
đưa chén trà mời Đề Thám. Đề Thám tinh ư, không uống, mà giao cho một
viên tùy tùng của Bá Phúc uống. Uống xong, tên nầy chết tại chỗ.
Ngày 18-5-1894, Bá Phúc đến thăm
Đề Thám ở Hố Chuối (Hữu Thuế). Phúc lén
đặt một cái tráp (hộp nhỏ bằng gỗ)
dưới gầm giường. Trong tráp có chứa quả ḿn. Sau khi đốt ng̣i nổ, Phúc kiếm cớ cáo
từ. May mắn, Đề Thám
phát hiện được âm mưu nầy. Ông ra lệnh nghĩa quân rút ra xa, để cho
quả ḿn nổ, và phục binh sẵn ở đó. Pháp
được tin nầy, tưởng Đề Thám đă
chết, liền tung hai cánh quân từ Nhă Nam và từ
Bắc Ninh, gồm khoảng 450 người, đến
tấn công Hố Chuối, không ngờ bị phục kích
nặng nề. Khoảng vài chục lính Pháp Việt
bị chết và bị thương, trong đó phó giám binh
Trouvé bị chết, giám binh Lambert và công sứ Muselier
bị thương nặng. Ngày 22-5-1894, quân Pháp
tấn công Hố Chuối (Hữu Thuế) lần nữa,
nhưng Đề Thám đă rút qua Thái Nguyên. Pháp phá
hủy hoàn toàn căn cứ Hố Chuối.
Ba tháng sau, Đề Thám đem quân trở về
Yên Thế lập căn cứ mới ở Lạng
Thương, giữa Chợ G̣ và Hữu Thuế, phía
bắc của Nhă Nam. Ngày 17-9-1894, bang Kinh, một
thuộc tướng của Đề Thám, phục kích trên
đường xe lửa Hà Nội-Lạng Sơn,
đoạn giữa Suối Ngành (Ghềnh) và Bắc Lệ
(Bắc Lộ), bắt được hai người Pháp
là Chesnay và Logiou. Chesnay là chủ thầu việc
đốn cây để làm đường xe
lửa và Logiou là nhân viên của Chesnay. Đề Thám báo tin cho người Pháp ở Nhă
Nam biết.
Pháp nhờ giám mục Velasco, người Tây Ban
Nha, phụ trách giáo xứ Bắc Ninh, đến Yên Thế
điều đ́nh. Giám mục Velasco gởi 3 linh
mục tên là Khâm,chánh xứ làng đạo Bi-noi, Trần
Chính Nhă, làng Dao-ngan, và Nguyễn Đức Hạnh từ
Phủ Lạng Thương. Ba linh
mục nầy đến Yên Thế, bị nghĩa quân
bắt đưa về gặp Đề Thám. Đề
Thám cho linh mục Khâm về mời giám mục Velasco
đến nói chuyện, c̣n giữ hai linh mục kia ở lại làm con tin. Giám mục Velasco đến một ḿnh. Đề Thám đón vào thảo luận với
giám mục tại một ngôi chùa trong rừng. Khi cần, th́ có người của Đề Thám
đưa tin của giám mục Velasco về Bắc Ninh
để hỏi ư kiến Phủ toàn quyền Pháp.
(Paul Chack, sđd. tt. 104-105.)
Sau hai tuần lễ thảo luận, phủ toàn
quyền Pháp ở Hà Nội bằng ḷng trả cho
đề Thám 15,000 đồng bạc Đông Dương,
tiền chuộc hai người Pháp. Đồng
thời, để cho Đề Thám quy thuận, phủ
toàn quyền Đông Dương đồng ư giao cho
Đề Thám cai quản bốn tổng ở Yên Thế
Thượng là Yên Lễ, Hữu Thượng, Mục
Sơn, Nhă Nam, và được hưởng thuế trong ba
năm, bắt đầu từ ngày 23-10-1894.
Sau khi giảng ḥa, Đề Thám đóng bản
doanh ở Phồn Xương, tổ chức làm ruộng,
khai khẩn đồn điền, khuếch trương
thế lực, tích trữ lương thực, mua thêm
vũ khí. Trong khi đó, chung quanh
Yên Thế xảy ra nhiều cuộc tấn công,
cướp bóc, mà Pháp đổ lỗi cho thuộc hạ
của Đề Thám. Pháp c̣n cho rằng các
“tướng cướp” đă trốn lên Yên Thế,
một cứ địa an toàn,
để tránh bị truy nă.
Dựa vào lư do đó, phủ toàn quyền Pháp giao
cho đại tá Galliéni, trưởng quân khu 2, đóng ở
Lạng Sơn, giải quyết việc
Yên Thế. Galliéni gởi thư cáo buộc
Đề Thám đă bao che cho thuộc hạ đi đánh
cướp, gây mất an ninh, và buộc Đề Thám
phải giải giới tất cả mọi
người. Đề Thám trả lời rằng
ông hoàn toàn không hay biết việc cướp bóc và hứa
sẽ đem nạp 30 thủ hạ và 30 khẩu súng. Galliéni không chấp thuận, ra lệnh tấn công
Phồn Xương ngày 29-11-1895, nhưng Đề Thám
đă lẫn trốn. Ông dẫn gia đ́nh và
thuộc hạ di chuyển hết căn cứ nầy
đến căn cứ khác, không ở yên một chỗ,
để tránh bị tấn công. Lực
lượng của ông khi ẩn khi hiện khắp vùng
rừng núi Thái Nguyên, Bắc Giang và Bắc Ninh.
Tháng 1-1897, Paul Doumer đến làm
toàn quyền Đông Dương. Lúc đó, Doumer dự tính
xin quốc hội Paris thuận cho vay 200 triệu quan
để thực hiện dự án cai
trị Đông Dương. Muốn thế, ông
phải chứng tỏ cho quốc hội Paris thấy
rằng Đông Dương hoàn toàn ổn định, không
c̣n mất an ninh. Do đó, ông
gấp rút giải quyết vụ Yên Thế, nhờ giám
mục Velasco đứng làm trung gian một lần nữa,
cho Đề Thám biết ư định ḥa b́nh của tân toàn
quyền. Ngày 13-11-1897, Đề Thám viết thư cho Doumer đồng ư quy thuận
với những điều kiện cũ, nghĩa là
Đề Thám sẽ cai trị bốn tổng như
trước đây. Phủ toàn
quyền chấp thuận và Đề Thám trở lại
Phồn Xương tháng 12-1897. (Paul Chack, sđd.
tt. 128-130.) Lần nầy,
Đề Thám tạm sống yên ổn ở Yên
Thế. Được bốn
năm, tin tưởng rằng Đề Thám hoàn toàn
chịu quy thuận, Pháp long trọng tổ chức lễ
tuyên thệ của Đề Thám tại Nhă Nam ngày 17-4-1901.
3.- ĐỀ THÁM VỚI PHONG TRÀO DUY TÂN VÀ ĐÔNG DU
T́nh h́nh chính trị Việt Nam yên tĩnh một
thời gian vào đầu thế kỷ 20 và bắt
đầu sôi động trở lại với sự thành
lập phong trào Duy tân và phong trào Đông du ở miền
Trung Việt Nam. Hoạt động
của hai phong trào nầy vang dội đến rừng núi
Yên Thế, nhất là khi lănh tụ của cả hai phong
trào nầy đến thăm điền trang của
Đề Thám.
Thứ nhứt, khoảng
đầu năm 1906, Phan Châu Trinh ra Hà Nội. Ông giúp các ông
Lương Văn Can, Nguyễn Quyền, thành lập
Đông Kinh Nghĩa Thục. Trước khi
lên đường qua Trung Hoa, Phan Châu Trinh đến Yên
Thế thăm Đề Thám, nhờ sự hướng
dẫn của Ông Ích Đường. Ông Ích
Đường là con của Ông Ích Kiền và là cháu nội
Ông Ích Khiêm. Ông Ích Khiêm, với một bà vợ
người Hà Đông, có một người con trai là Ông
Ích Thọ. Như thế Thọ là em
của Kiền và là chú của Đường. Nhân ra bắc thăm quê ngoại, Ông Ích Thọ lên
Yên Thế, gia nhập lực lượng Đề Thám. Ông
Ích Đường đem theo gia phả
nhà ḿnh cùng Phan Châu Trinh lên Yên Thế, gặp Ông Ích
Thọ. Hai bên nhận ra chú cháu. Thọ đưa Phan Châu Trinh đến gặp
Đề Thám. (Theo lời kể của Ông Ích
Bật, con trai của Ông Ích Đường, cho
người viết trong các cuộc phỏng vấn năm
1972, 1973 tại Đà Nẵng.) Không ai rơ Đề
Thám và Phan Châu Trinh đă trao đổi những ǵ, nhưng
đường lối của hai ông hoàn toàn khác biệt
nhau, một bên bạo động, một bên bất
bạo động, nên về sau không nghe nói đến
nữa.
Thứ hai, vào đầu 1907, Phan Bội Châu
từ Nhật Bản, qua Trung Hoa, theo đường bộ
về Việt Nam, đă ghé Yên Thế thăm Đề Thám
trong 10 ngày. (Phan Bội Châu niên
biểu, đăng trong Chương Thâu, Phan
Bội Châu toàn tập, tập 6, Huế: Nxb. Thuận
Hóa, 1990, tr. 131.) Thật ra,
đây là lần thứ hai Phan Bội Châu lên Yên Thế. Ông lên Yên Thế lần đầu vào cuối
năm 1902, nhưng không gặp được Đề
Thám v́ ông Đề bị đau. (Chương Thâu, sđd. tt.
62-63.)
Trong lần thứ hai nầy, khi gặp nhau, Phan
Bội Châu đề nghị Đề Thám ba điều:
1) Mời Đề Thám gia nhập hội Duy tân và thừa
nhận Cường Để làm hội chủ. 2) Xin Đề
Thám dung nạp những nghĩa sĩ Trung Kỳ bị
khủng bố. 3) Nhờ Đề Thám ứng viện khi
Trung Kỳ xướng nghĩa. Đề Thám
cũng đề nghị Phan Bội Châu ba điều: 1)
Trung Kỳ viện trợ cho Phồn Xương, nếu
có việc đánh Pháp. 2) Hội Duy tân lo
việc ngoại giao nếu Phồn Xương đánh
Pháp. 3) Hội Duy tân trợ giúp
nếu Phồn Xương thiếu thốn. Đề
Thám liền chọn một ḥn núi nhỏ phía sau đồn
Phồn Xương để Phan Bội Châu lập căn
cứ cho người Trung Kỳ. Chính tại núi
nầy, Phạm Văn Ngôn, hiệu là Tùng Nham, dựng
một đồn riêng, gọi là đồn Tú Nghệ, cho
những nhà hoạt động Trung Kỳ tá túc. (Chương
Thâu, sđd. tt. 132-133.)
Sau khi Phan Bội Châu rời Yên Thế, Đề
Thám bí mật lập đảng Nghĩa Hưng, nhận
Kỳ Ngoại Hầu Cường Để làm minh
chủ, đúng theo đề nghị của Phan Bội
Châu. (Paul Chack, sđd. tt. 154-158.) Đề Thám c̣n bí mật cử
thuộc hạ là lư Nho tổ chức đánh úp Pháp tại
Hà Nội ngày 17-11-1907, nhưng bất thành. (Paul
Chack, sđd. 168-169.) Ngày 27-6-1908,
tại Hà Nội, một nhóm lính khố đỏ tổ
chức đầu độc lính Pháp, với sự
yểm trợ ở bên ngoài của lực lượng
Hoàng Hoa Thám. Công việc bị bại
lộ nên mưu tính nầy bị Pháp chận đứng.
Cần lưu ư rằng trước
vụ đầu độc lính Pháp tại Hà Nội (tháng
6-1908), là vụ xin xâu chống thuế ở Trung Kỳ
(tháng 3-1908). Pháp đàn áp dữ dội và dẹp yên ngay tức
khắc. Sau vụ nầy,
tổng thống Pháp kư sắc lệnh ngày 26-6-1908 cử
Wladilas Klobukowsky làm toàn quyền Đông Dương. Klobukowsky đưa ra những biện pháp cứng
rắn để giải quyết cả hai vụ nổi
dậy ở Trung Kỳ và ở Hà Nội. Nhằm
tiếp tục ổn định t́nh h́nh, chính quyền Pháp
liền nghĩ đến việc tấn công Yên Thế, mà
người Pháp tin rằng đó là nơi nương náu của
những phần tử chống đối, và là
đầu mối của những xáo trộn ở Bắc
Kỳ.
4.- PHÁP TẤN CÔNG YÊN THẾ
Ngày 28-1-1909, Pháp gởi tối hậu thư
buộc Đề Thám phải tŕnh diện ở Hà Nội,
trao vơ khí, thuộc hạ, người đào ngũ và
phiến quân trốn ở Yên Thế cho Pháp. Đồng
thời Pháp treo yết thị tại các đ́nh làng trên toàn
tỉnh Bắc Giang tố cáo Đề Thám không chịu yên
ổn làm ăn, mà tiếp tục cướp bóc, và kêu
gọi dân chúng giúp đỡ chính phủ dẹp Đề
Thám.
Ngày hôm sau, 29-1-1909, quân khố xanh (Việt)
tấn công căn cứ của Đề Thám ở Chợ
G̣, phía bắc Nhă Nam, nhưng bị đẩy lui. Khi quân Pháp đến Chợ G̣ ngày hôm sau, th́
nghĩa quân đă rút đến vùng cách Hà Nội khoảng
20 cây số về phía bắc. Tại đây,
ngày 5-7-1909, thuộc hạ của Đề Thám bắt
được một người Pháp tên là Voisin, giám
thị hăng thầu Leroy, trên con đường đá
mới mở từ Đông Anh đi Cao Bằng. Đề
Thám liền dùng Voisin làm con tin để thương
lượng với Hà Nội.
Tin Voisin bị bắt làm xôn xao
dư luận Hà Nội, nhưng Pháp không chịu chuộc,
mà buộc Đề Thám phải thả Voisin, và nhất
quyết đem quân lùng bắt Đề Thám. Đề Thám tiếp
tục di chuyển liên tục, lên Thái Nguyên, về Yên
Thế... Voisin bị đuối
sức; Đề Thám đành thả y. Thuộc
hạ của Đề Thám hoặc bị tử
thương, hoặc dần dần đầu hàng Pháp,
chỉ c̣n một ít người theo
Đề Thám.
Ngày 30-7-1909, Pháp cử Lê Hoan, nay đổi qua
chức tổng đốc Hải Dương, làm Khâm sai,
cầm quân cùng Pháp đánh Đề Thám. Lê Hoan theo
phương pháp của Nguyễn Thân, ngăn chận
những nguồn tiếp liệu của Đề Thám,
trừng phạt thật nặng những làng nào t́nh nghi
chứa chấp hay yểm trợ cho Đề Thám, nên
dần dần dân chúng giảm việc giúp đỡ Đề
Thám. Đề Thám rút lên gần Tam
Đảo giữa Vĩnh Yên và Thái Nguyên. Một trận đụng độ lớn
cuối cùng xảy ra ngày 5-10-1909 tại núi Lang, gần Tam
Đảo. Pháp chết 17 (trong
đó có 7 quân Pháp), bị thương 31 người (trong
đó có 21 Pháp). Đề Thám
chỉ c̣n khoảng 20 quân. Cả
Rinh và Đội Sơn, hai thủ hạ thân cận
của đề Thám đầu hàng Lê Hoan. Ngày 30-11, bà Ba Nhu, tức bà vợ thứ ba của
Đề Thám, cùng con là Hoàng Thị Thế, bị bắt. Bà là một nữ thủ lănh nổi tiếng
ở Yên Thế, giúp chồng rất đắc lực.
4.- CÁI CHẾT CỦA HÙM THIÊNG YÊN
THẾ
Có hai nguồn tin khác nhau về cái
chết của Đề Thám.
Theo nguồn tin của Pháp, quân Pháp đeo bám
Đề Thám hết sức gắt gao,
nhưng vẫn không bắt được Hùm Thiêng Yên
Thế. Ông ẩn hiện khắp nơi, Pháp không
biết cách nào bắt cho được Đề Thám,
liền nhờ đến Lương Tam Kỳ, một
dư dảng của Thái B́nh Thiên Quốc ở Trung Hoa, tràn
sang nước ta làm thổ phỉ. Sau ḥa
ước Thiên Tân lần thứ hai ngày 9-6-1885
giữa Pháp và Trung Hoa về vấn đề Việt Nam,
quân Trung Hoa rút về nước, Lương Tam Kỳ
ở lại hoạt động vùng Chợ Chu (bắc Thái
Nguyên), xuống tới Tam Đảo (giữa Thái Nguyên và
Phúc Yên). Năm 1889, Pháp đem quân
tấn công. Lương Tam Kỳ xin hàng
với điều kiện được chia đất cai trị và được trả
lương. Phủ toàn quyền Pháp đồng ư,
giao cho Lương Tam Kỳ cai quản 4 tổng gần
Chợ Chu và 42,000 đồng Đông Dương một
năm. Lương Tam Kỳ ở yên
trong 4 tổng đó và quân Pháp cũng không được
vào 4 tổng đó.
Được Pháp thuyết phục, Lương
Tam Kỳ gởi ba “khách trú” (chỉ người Trung Hoa),
giả làm người của tướng Liên bên Quảng
Tây (Trung Hoa), đến liên lạc với Đề Thám
ở Yên Thế thượng vào ngày 10-1-1913. Tuy
đang cần sự giúp đỡ từ bên ngoài, nhưng
Đề Thám cũng rất cẩn thận đề
pḥng, nên măi đến một tháng sau, tối 9-2-1913
(rạng 10-2-1913), ba người nầy mới ra tay,
hạ thủ được Đề Thám trong lúc ông
đang ngủ. (Paul Chack, sđd. tt
261-263.) (10-2-1913 tức mồng 5
Tết năm quư sửu). Quân
Pháp cho bêu đầu Đề Thám ở Nhă Nam trong 2 ngày
rồi dùng dầu hỏa thiêu đốt, tro cốt
đổ xuống ao. Nguồn tin nầy
về cái chết của Đề Thám được xem
là nguồn tin chính thức, và sử sách thường
viết theo nguồn tin nầy.
Tuy nhiên, theo nguồn tin gia
đ́nh của Đề Thám th́ sự thật không phải
như vậy. Trong sách Năm mươi
năm cách mạng hải ngoại- Hồi kư của
Hoàng Nam Hùng, do Phạm Giật Đức biên soạn, Sài
G̣n 1960, trang 43, phần chú thích, Hoàng Nam Hùng kể lại: “Việc
ông Hoàng Hoa Thám bị giết chỉ là một giả
thuyết của người Pháp dựng lên, v́ sau đó cái
đầu lâu ấy có người đến nhận là
đầu của người khách[Tàu) buôn bán ở
Bố Hạ. Người nầy v́ giống ông
Thám, nên quân của Lương Tam Kỳ giết đi để
thay thế, mục đích để tạm yên cho ông
Thế khỏi bị truy tầm. Năm 1947, tôi [Hoàng
Nam Hùng] có qua nhà bà vợ hai của Ông [Đề
Thám] ở làng Trũng, th́ được biết Ông
chốn [trốn] về ở đây, và sau
mất đi v́ bị bệnh kiết. Tuy việc nầy sau đó người Pháp có
biết, nhưng mục đích để yên ḷng dư
luận, họ cũng lờ đi.”
Lời của Hoàng Nam Hùng thuật lại một
việc không liên hệ đến vấn đề chính
trị mà Hoàng Nam Hùng đang theo
đuổi, có thể xem là trung lập hay vô tư
đối với cái chết của Hoàng Hoa Thám. Hoàng Nam Hùng gặp được bà vợ thứ
hai của Đề Thám và bà nầy kể lại cái
chết của chồng ḿnh th́ hẳn là chính xác. Do
đó, cần phải chú ư đến nguồn tin nầy
để nghiên cứu thêm, nhất là t́m đến quê quán
của bà vợ thứ hai của Hoàng Hoa Thám ở làng
Trũng tại Yên Thế để ḍ hỏi và kiểm
chứng lại nguồn tin nầy, nhân đó có thể
lần ṃ t́m ra ngôi mộ của Hoàng Hoa Thám ở vùng
nầy.
Nếu nguồn tin Hoàng Nam Hùng thuật lại
đúng với thực tế, th́ đây là một đính
chính quan trọng về cái chết của Hùm Thiêng Yên
Thế Hoàng Hoa Thám, tên thật là TrươngVăn
Nghĩa, dầu sa cơ thất thế, vẫn không
để nhân thân lọt vào tay quân Pháp xâm lược.
TRẦN GIA PHỤNG
(Toronto, 22-8-2016)