CỰU
HOÀNG BẢO ĐẠI VẬN ĐỘNG
THỐNG
NHỨT ĐẤT NƯỚC
Trần
Gia Phụng
HOÀN CẢNH CHÍNH TRỊ
Vào thế kỷ 19, Pháp xâm lăng
Việt Nam qua nhiều giai đoạn: Năm 1862, Pháp chiếm ba tỉnh miền Đông Nam
Kỳ. Năm 1874 Pháp chiếm ba tỉnh miền
Tây Nam Kỳ. Từ đây, sáu tỉnh Nam Kỳ
trở thành thuộc địa của Pháp. Trung
và Bắc Kỳ, phần đất Việt Nam còn lại, bị Pháp bảo hộ bằng hòa ước 1883, rồi
sửa đổi lại bằng hòa ước 1884. Chú
ý: Dưới thời Pháp thuộc, Nam Kỳ theo
hành chánh thuộc địa do Pháp trực tiếp cai trị. Trung và Bắc Kỳ vẫn do nhà Nguyễn tiếp
tục làm vua, theo nền hành chánh bảo hộ của người Pháp.
Năm 1945, Nhật đảo chánh Pháp
tại Đông Dương ngày 9-3. Nhân cơ hội
nầy, vua Bảo Đại (trị vì 1926-1945) quyết định thu hồi chủ quyền dân tộc,
công bố bản Tuyên ngôn Độc lập ngày 11-3.
Chính phủ Trần Trọng Kim được thành lập ngày 17-4. Nhật trả Nam Kỳ (tức Nam Bộ) lại cho
chính phủ Trần Trọng Kim, nhưng chưa kịp bàn giao thì Nhật đầu hàng Đồng
minh ngày 14-8-1945. Chính phủ Trần
Trọng Kim sụp đổ.
Lợi dụng hoàn cảnh nầy, đảng
Cộng Sản Đông Dương (CSĐD) cùng Mặt trận Việt Minh (VM), cướp chính quyền,
thành lập chính phủ ngày 2-9-1945 do Hồ Chí Minh (HCM) lãnh đạo. (Nhóm chữ
“cướp chính quyền” xuất phát từ các bộ sách lịch sử của cộng sản, ví dụ:
Nguyễn Khánh Toàn chủ biên, Lịch sử
Việt Nam tập II, Hà Nội: Nxb. Khoa Học Xã Hội, 1985, tr. 339, dòng số 5.) Khi Pháp trở lại tái chiếm Nam Kỳ, rồi ra
Bắc Kỳ, HCM thỏa hiệp với Pháp, ký hiệp định Sơ bộ ngày 6-3-1946 chịu nhận Việt Nam nằm trong Liên Hiệp Pháp
và Liên Bang Đông Dương, đồng thời để cho quân đội Pháp trở lui Bắc
Kỳ. Sau đó, HCM qua Paris ký Tạm ước (Modus Vivendi) ngày
14-9-1946 để cho Pháp tái tục các hoạt động kinh tế, tài chính, giao thông,
văn hóa trên toàn quốc Việt Nam.
Quân Pháp đến Bắc Kỳ càng
ngày càng đông. Sau những cuộc đụng
độ giữa lực lượng hai bên, Pháp yêu câu VM đặt Hà Nội dưới quyền kiểm soát
của người Pháp. Lo ngại bị bắt, HCM
cùng VM và đảng CSĐD quyết định tấn công Pháp tối 19-12-1946, nhằm tạo lý
do chính đáng để lãnh đạo CS trốn khỏi Hà Nội. Thế là chiến tranh bùng nổ. Đây là chiến tranh giữa đảng CSĐD với
Pháp chứ không phải giữa dân tộc Việt Nam với Pháp.
NHỮNG BIẾN CHUYỂN CHÍNH TRỊ
Trong khi đánh nhau với Pháp,
đảng CSĐD tiếp tục chủ trương “giết tiềm lực”, nghĩa là tiêu diệt tất cả
những thành phần không theo VMCS. Vì
vậy, những người theo chủ nghĩa dân tộc quy tụ chung quanh cựu hoàng Bảo Đại,
tạm thời liên kết với Pháp để chống lại VMCS.
Sau nhiều cuộc vận động chính
trị, đại diện các giới cầm quyền Việt Nam tại ba miền Bắc, Trung và Nam Bộ
trong vùng không do VM kiểm soát, đại diện các đảng phái, các đoàn thể
chính trị, tham dự hội nghị từ ngày 20-5-1948 tại Sài Gòn, cùng bầu thiếu
tướng Nguyễn Văn Xuân làm thủ tướng chính phủ trung ương lâm thời. Hội đồng tổng trưởng Trung ương Lâm thời
do Nguyễn Văn Xuân điều khiển, chính thức thành lập ngày 1-6-1948, với sự
đồng ý của cựu hoàng Bảo Đại.
Theo đề nghị của cao uỷ Pháp
tại Đông Dương là Émile Bollaert, thủ tướng Nguyễn Văn Xuân cùng đại diện
ba miền là Nghiêm Xuân Thiện, Đặng Hữu Chí (Bắc Việt), Phan Văn Giáo,
Nguyễn Khoa Toàn, Đinh Xuân Quảng, (Trung Việt), và Trần Văn Hữu, Lê Văn
Hoạch (Nam Việt) đến vịnh Hạ Long hội họp dưới sự chứng kiến của cựu hoàng
Bảo Đại, và đi đến thỏa ước ngày 5-6-1948, theo đó: Pháp công
nhận Việt Nam độc lập, tự do thực hiện nền thống nhất của mình;
ngược lại Việt Nam cam kết tôn trọng mọi quyền hạn và quyền lợi của
Pháp, các căn bản dân chủ... Chính
phủ, Pháp và chính phủ Việt Nam sẽ tiếp tục thương thuyết các vấn đề ngoại
giao, kinh tế, tài chánh, chuyên môn...
Trong khi chính giới ở Paris
cũng như Sài Gòn đang tìm kiếm một lối thoát chính trị, thì một yếu tố mới
xuất hiện. Tình hình Trung Hoa biến
chuyển một cách bất lợi cho Trung Hoa Quốc Dân Đảng. Mao Trạch Đông càng ngày càng thắng
thế. Lâm Bưu mở cuộc tổng phản công
và chiếm Bắc Kinh ngày 1-2-1949.
Trước đó, Tưởng Giới Thạch từ chức tổng thống Trung Hoa Dân Quốc
ngày 21-1-1949, rồi di tản qua hải đảo Đài Loan ngày hôm sau. Lý Tôn Nhơn lên tạm quyền chức vụ
nầy.
Tại Hoa Kỳ, Harry Truman tái
đắc cử tổng thống ngày 2-11-1948, nhiệm kỳ 1949-1953. Trước sự thành công của cộng sản Trung
Hoa, Hoa Kỳ tỏ ra quan ngại đến tình hình Đông Dương. Do đó, tuy trước kia không ủng hộ Bảo
Đại, nhưng ngày 17-1-1949 bộ Ngoại giao Hoa Kỳ gởi công điện cho đại sứ
Pháp tại Washington DC, khuyến cáo Pháp nên đi đến một thỏa thuận với Bảo
Đại hay bất cứ một nhóm “quốc gia
chân chính” nào khác.
Báo Le Monde (Paris) số ngày
3-2-1949 tiết lộ rằng bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đã yêu cầu thủ tướng Pháp “giải quyết vấn đề Việt Nam bằng cách
thiết lập một chính phủ quốc gia; và Bảo Đại có vẻ đủ khả năng chận đứng sự
xâm nhập của chủ thuyết cộng sản vào Đông Dương”. (Chính Đạo, Việt Nam niên biểu 1939-1975, tập B:
1947-1954, Houston: Nxb Văn Hóa, 1997, tr. 116.)
HIỆP ĐỊNH ÉLYSÉE
(8-3-1949)
Do những thay đổi ở Trung Hoa
và nhất là do sự thúc đẩy của Hoa Kỳ, cuộc thảo luận giữa chính phủ Pháp và
Bảo Đại được khai thông nhanh chóng.
Ngày 12-2-1949, một Hội đồng hỗn hợp Pháp Việt được thành lập và làm
việc đến ngày 28-2-1949 thì kết thúc.
Sau khi lãnh đạo hai phía xem
xét lại kết quả, ngày 8-3-1949, cựu hoàng Bảo Đại đến điện Élysée, nơi đặt
văn phòng tổng thống Pháp ở thủ đô Paris, ký kết hiệp định với tổng thống
Pháp là Vincent Auriol. Vì vậy hiệp định nầy thường được gọi là hiệp định Élysée, gồm có ba văn kiện: 1)
Văn thư của tổng thống Cộng hòa Pháp, Chủ tịch Liên Hiệp Pháp, gởi hoàng đế Bảo Đại, nói về các vấn đề thống
nhất, ngoại giao, nội chính, tư pháp, văn hóa, quân sự, kinh tế, tài chánh
của nước Việt Nam trong Liên Hiệp Pháp.
2) Văn thư của hoàng đế Bảo Đại gởi tổng thống Cộng hòa Pháp, Chủ
tịch Liên Hiệp Pháp, xác nhận đã tiếp nhận và đồng ý về nội dung của văn
thư trên. 3) Văn thư của tổng thống
Cộng hòa Pháp gởi hoàng đế Bảo Đại bổ túc thêm, theo lời yêu cầu của Bảo
Đại, các điểm liên hệ đến vấn đề thống nhất của Việt Nam và vấn đề ngoại
giao, nhất là việc trao đổi đại sứ.
Trong cả ba văn kiện trên,
người Pháp gọi quốc hiệu Việt Nam như dưới thời chính phủ Trần Trọng
Kim. Người Pháp cần một giải pháp
chính trị để giải quyết tình hình Việt Nam.
Pháp buộc lòng phải ký hiệp định Élysée,
nhưng không lẽ tổng thống Pháp kiêm chủ tịch Liên Hiệp Pháp, lại ký kết văn
bản với một người không có chức vụ tương xứng? Do đó, Pháp mới trở lại danh xưng “hoàng
đế”, để giữ thế cân đối chính trị giữa hai bên trước mặt quốc tế. Vì vậy, người Pháp gọi cựu hoàng Bảo Đại
là hoàng đế, thật sự chỉ có tính cách tượng trưng.
Với hiệp định Élysée, chính phủ Pháp chính thức
giải kết hiệp ước bảo hộ 1884. Hiệp
ước bảo hộ năm 1884 hết sức bất bình đẳng, đã được ký kết ngày 6-6-1884,
dưới triều vua Kiến Phúc (trị vì 1883-1884). Tuy nhiên, hiệp ước 1884 chỉ đề cập đến
vùng lãnh thổ từ tỉnh Bình Thuận trở ra Bắc, tức là Trung và Bắc Kỳ mà
thôi. Còn Nam Kỳ là đất đã được
nhượng đứt cho Pháp từ năm 1874, dưới triều vua Tự Đức (trị vì 1848-1883),
nên vẫn còn được xem là lãnh thổ của Pháp.
Cuộc thương thuyết về Nam Kỳ tiếp tục thêm một thời gian, để đưa đến
việc tái thống nhất hoàn toàn đất nước Việt Nam
PHẢN ĐỐI CỦA CỘNG SẢN VÀ THỰC DÂN
Phản đối mạnh mẽ trước việc
ký kết hiệp định Élysée giữa
Vincent Auriol và Bảo Đại là HCM. Trả
lời phỏng vấn ngày 3-4-1949 của Dân Quốc Nhật Báo [một báo của Trung Hoa
lúc đó], HCM nói: “...Đó chỉ là một
tờ giấy lộn. Thứ thống nhất và độc
lập giả hiệu ấy chẳng lừa bịp được ai...Vĩnh Thụy cam tâm bán nước, đó là
sự thực...” (Hồ Chí Minh toàn tập [tập] 5, xuất
bản lần thứ hai, Hà Nội: Nxb. Chính Trị Quốc Gia, 2000, tr. 1050.)
Hồ Chí Minh kết án Bảo Đại
bán nước khi ký hiệp định Élysée. Nhớ lại điều 1 thỏa ước Sơ bộ ngày 6-3-1946 giữa HCM và
Sainteny, nói rằng Pháp thừa nhận Việt Nam là một quốc gia tự do (état
libre) trong Liên Bang Đông Dương và trong LHP. Hiệp định Élysée cũng thừa nhận Việt Nam độc lập trong LHP. Theo điều 2 của thỏa ước Sơ bộ, Việt Nam (VM) sẵn sàng tiếp
đón quân Pháp đến thay thế quân Trung Hoa để giải giáp quân Nhật, nghĩa là
HCM chính thức đồng ý việc Pháp trở lại Việt Nam. Hồ Chí Minh còn ký Tạm ước (14-9-1946) để nhượng bộ Pháp. Trong khi đó, qua hiệp định Élysée, Bảo Đại tranh đấu để đem lại
độc lập và thống nhất cho đất nước.
Vậy việc ký kết các hiệp ước với Pháp giữa hai người, HCM và Bảo
Đại, ai là kẻ thực sự bán nước?
Hiệp định Élysée bị các dân biểu cộng sản Pháp
và các dân biểu thuộc đảng De Gaulle phản đối. Các dân biểu cộng sản Pháp, nằm trong hệ
thống ĐTQTCS, dưới quyền của Liên Xô, lập đi lập lại một điệp khúc duy nhất
là chỉ muốn chính phủ Pháp thương lượng với HCM. Các dân biểu thuộc đảng De Gaulle theo
chủ trương thực dân cực đoan, muốn giữ thuộc địa Nam Việt lại cho nước Pháp
và không bằng lòng về sự thống nhất Việt Nam. Các dân biểu nầy viện dẫn một điều luật
trong hiến pháp ngày 27-10-1946 của nền Đệ tứ Cộng hòa Pháp, theo đó “không một ai có thể phạm vào sự sứt mẻ
của lãnh thổ được.” (Bảo Đại, Con
rồng Việt Nam, California: Nxb. Xuân Thu, 1990, tr. 334.)
Ngược lại, cựu hoàng Bảo Đại
cương quyết đòi hỏi Pháp phải trả Nam Việt lại cho Việt Nam. Dầu hiệp định Élysée đã được ký kết, nhưng Pháp chưa trả Nam Việt về lại cho
Việt Nam, thì cựu hoàng cũng chưa chịu lên đường về nước.
MỘT BÀ GIÀ NHÌN XA
Điều đặc biệt là ý kiến trên
đây của cựu hoàng Bảo Đại do một bà già đưa ra, đức Từ Cung, thân mẫu của
cựu hoàng. Nguyên sau khi đạt được
những thỏa thuận căn bản với Pháp, cựu hoàng Bảo Đại cử Phạm Văn Bính về
Việt Nam thăm dò dư luận. Thủ tướng
lâm thời Nguyễn Văn Xuân cùng các tổng trấn hội họp và quyết định mời cựu
hoàng về nước. Tổng trấn Bắc Việt
Nghiêm Xuân Thiện cho rằng cựu hoàng chưa nên về nước mà nên ở lại Paris
thương thuyết dứt khoát về quy chế Việt Nam trong LHP rồi mới về, nhưng ông
Thiện bị thiểu số.
Được hỏi ý kiến, mẹ của cựu
hoàng là đức Từ Cung ở Huế cũng chủ trương là cựu hoàng Bảo Đại phải ở lại
Pháp để thương lượng dứt khoát trước khi về Việt Nam. Bà cho mời Nghiêm Xuân Thiện đến Huế để
tham khảo ý kiến. Đức Từ Cung cử
cháu của bà là Nguyễn Xuân Quang, cầm thư riêng của bà sang Pháp dặn dò Bảo
Đại. Sợ ở Huế, tổng trấn Phan Văn
Giáo cản trở, nên bà nhờ Nghiêm Xuân Thiện giúp lo cho ông Quang đi qua
Pháp. Được thư mẹ dặn dò, Bảo Đại
càng cương quyết giải quyết cho xong chuyện Nam Kỳ mới về nước. (Bùi Nhung, Thối nát, Sài Gòn 1965, Xuân Thu tái bản, Houston: không đề
năm, tt. 109-111.)
THỦ TỤC PHÁP LÝ ĐƯA ĐẾN THỐNG NHẤT VIỆT NAM
Nguyên dưới đời vua Tự Đức,
toàn thể sáu tỉnh Nam Kỳ trở thành thuộc địa của Pháp sau hòa ước
15-3-1874. Vì vậy, sau hòa ước năm
1874, về phương diện hành chánh, biên giới phía nam nước Việt Nam chỉ đến
tỉnh Bình Thuận, không có Nam Kỳ.
Sau đó, Pháp bảo hộ Việt Nam bằng hòa ước ngày 6-6-1884. Hòa ước năm 1884 chỉ đề cập lãnh thổ Việt
Nam từ Bình Thuận trở ra bắc mà thôi, vì Nam Kỳ đã là thuộc địa Pháp.
Năm 1945, sau khi đảo chánh
lật đổ Pháp ở Đông Dương, Nhật Bản đồng ý trả miền Nam lại cho chính phủ
Trần Trọng Kim. Chính phủ Trần Trọng
Kim gọi Nam Kỳ là Nam Bộ (trong khi Pháp vẫn gọi là Nam Kỳ), nhưng việc
trao trả chưa kịp thi hành, thì Nhật hoàng tuyên bố đầu hàng ngày
14-8-1945. Việt Minh nổi lên chiếm quyền
ngày 2-9-1945, nhưng VM không đủ sức bảo vệ Nam Bộ, khiến Nam Bộ lọt vào
tay Pháp trở lại.
Tuy hiệp định Élysée ngày 8-3-1949 đã giải kết
hiệp ước năm 1884, nhưng hiệp ước 1884 không bao gồm đất Nam Kỳ, vì Nam Kỳ
đã là thuộc địa của Pháp từ năm 1874, nên vấn đề miền Nam vẫn chưa được
giải quyết trong hiệp định Élysée.
Cựu hoàng Bảo Đại cương quyết tiếp tục đòi hỏi tái thống nhất đất nước, nghĩa
là Pháp phải trả Nam Kỳ lại cho Việt Nam.
Lúc đó, vì nhu cầu cấp bách của tình hình, chính phủ Henri Queuille
phải tiến hành thủ tục hiến định, để giao hoàn miền Nam cho Việt Nam.
Như trên đã dẫn, hiến pháp Đệ
tứ Cộng Hòa Pháp ngày 27-10-1946 có điều quy định rằng “không một ai có thể phạm vào sự sứt mẻ
của lãnh thổ được”, nhưng điều thứ 75 cũng của hiến pháp nầy lại ghi rằng
“một phần lãnh thổ của Cộng Hòa Pháp
hoặc Liên Hiệp Pháp có thể biến đổi do luật của quốc hội sau khi đã tham
khảo ý kiến với Hội nghị địa phương và Hội đồng Liên Hiệp Pháp.” (Chính
Đạo, sđd. tr. 123.) (Về các điều
khoản nầy xin xem chương VIII, từ điều 60 đến điều 82, hiến pháp Đệ tứ CH
Pháp.)
Do đó, để thực hiện hiệp định
Élysée, trao trả miền Nam lại cho
Việt Nam, ngày 11-3-1949 quốc hội Pháp biểu quyết chấp thuận thành lập “Hội
đồng lãnh thổ Nam Kỳ”, và được chính phủ Pháp ban hành thành luật ngày
14-3-1949, để Hội đồng nầy quyết định về tương lai Nam Kỳ. Hội đồng nầy được bầu ra ngày 10-4-1949
tại Nam Kỳ, gồm 50 thành viên.
Khi “Hội đồng lãnh thổ Nam
Kỳ” bỏ phiếu lần thứ nhứt, kết quả bỏ phiếu về việc sáp nhập Nam Kỳ vào Việt
Nam là 25-25, nghĩa là kết quả cân bằng giữa hai khuynh hướng. Hội đồng nầy phải bỏ phiếu lần thứ hai
ngày 23-4-1949. Kết quả là 45 phiếu
thuận và 5 phiếu chống. (Bảo Đại, sđd.
tr. 345.) Như thế có nghĩa là Hội đồng Lãnh thổ Nam Kỳ đồng ý sáp nhập miền
Nam về với Việt Nam. Kết quả nầy được
chuyển về Quốc hội Pháp. Ngày
3-6-1949, quốc hội Pháp, chiếu theo kết quả cuộc bỏ phiếu của Hội đồng Lãnh
thổ Nam Kỳ ngày 23-4-1949, chấp thuận việc sáp nhập Nam Kỳ vào Việt
Nam.
Ngày 4-6-1949, tổng thống
Pháp Vincent Auriol ban hành luật công nhận Việt Nam thống nhất, gồm cà
Bắc, Trung và Nam Việt, trong khi bộ Ngoại giao Hoa Kỳ gởi điện chúc mừng
Pháp về hiệp định Élysée. Đây là lần đầu tiên Pháp thừa nhận trả
Nam Kỳ lại cho Việt Nam và Việt Nam chính thức tái thống nhất.
Cần chú ý là khi Hồ Chí Minh
ký thỏa ước Sơ bộ ngày 6-3-1946 tại
Hà Nội với Jean Sainteny, thì Jean Cédile, đại diện Pháp tại nam Đông
Dương, tuyên bố rằng thỏa ước nầy chỉ có giá trị ở miền bắc, và không có giá
trị ở miền nam vĩ tuyến 16. (Chính Đạo, Việt
Nam niên biểu 1939-1975, tập A: 1939-1946, Houston: Nxb Văn Hóa, 1996,
tr. 319.) Điều đó có nghĩa là lúc
đó, Pháp chưa chịu để miền Nam tái sáp nhập vào Việt Nam, hay nói cách khác
là Hồ Chí Minh chưa thống nhất được đất nước. Ngược lại, cựu hoàng Bảo Đại đã theo đúng
thủ tục pháp lý đỏi hỏi độc lập cho Việt Nam và đem miền Nam Việt Nam trở
về với tổ quốc thiêng liêng. Quốc hội
Pháp phải thừa nhận việc nầy.
Trong thế kỷ 19, Pháp theo
tiến trình hai bậc, từ địa phương đến trung ương: 1) Pháp chiếm Nam Kỳ làm
thuộc địa theo hai hiệp ước ngày 5-6-1862 và ngày 15-3-1974. 2) Sau đó, Pháp bảo hộ Việt Nam (lúc đó
chỉ tử Bắc Kỳ vào Bình Thuận) bằng hiệp ước ngày 6-6-1884.
Vào thế kỷ 20, cựu hoàng Bảo
Đại cũng đi theo tiến trình hai bậc, nhưng ngược lại từ trung ương xuống
địa phương: 1) Cựu hoàng Bảo Đại ký
với tổng thống Pháp Vincent Auriol hiệp định Élýsée ngày 8-3-1949 giải kết hiệp ước ngày 6-6-1884 (trung
ương). Từ đây Việt Nam không còn bị
Pháp bảo hộ mà trở thành một nước độc lập trong LHP. 2) Sau đó, cựu hoàng Bảo Đại tiếp tục đòi
hỏi thủ tục pháp lý ở tại Nam Kỳ và trước quốc hội Pháp, giải kết các hiệp
ước 1862 và 1874, đưa Nam Kỳ trở về với lãnh thổ Việt Nam (địa phương).
Ngày 3-6-1949, quốc hội Pháp
chấp thuận kết quả ngày 23-4-1949 của Hội đồng lãnh thổ Nam Kỳ, và hôm sau
ngày 4-6-1949 tổng thống Pháp Vincent Auriol ban hành luật công nhận Việt
Nam thống nhất. Cuộc trao đổi văn
kiện về hiệp định Élysée diễn ra
tại tòa đô sảnh Sài Gòn ngày 14-6-1949 giữa cựu hoàng Bảo Đại và cao uỷ
Pháp tại Đông Dương Léon Pignon.
Ngày nầy được xem là ngày thành lập chính thể Quốc Gia Việt Nam.
Trong lời hiệu triệu gởi quốc
dân Việt Nam đọc trong buổi lễ nầy, cựu hoàng tuyên bố từ nay Việt Nam hoàn
toàn độc lập, và cựu hoàng tạm cầm quyền cho đến khi tổ chức tổng tuyển
cử. (Đoàn Thêm, Hai mươi năm qua: Việc từng ngày (1945-1964), Xuân Thu, California,
tái bản không đề năm, tr. 55.) Quốc
kỳ Việt Nam (cờ vàng ba sọc đỏ) được treo trước Tòa đô sảnh. Riêng hiệp định Élysée, cho đến ngày 2-2-1950, tức gần một năm sau ngày ký,
quốc hội Pháp mới biểu quyết phê chuẩn.
KẾT LUẬN
Người Pháp đã cướp Nam Kỳ và
áp lực triều đình Huế do vua Tự Đức đứng đầu, phải ký hiệp ước nhượng đứt
Nam Kỳ cho Pháp năm 1874. Ba phần tư
thế kỷ sau, tức 75 năm sau, cựu hoàng Bảo Đại, hậu duệ của vua Tự Đức, đã
tận dụng hoàn cảnh, vận động Pháp trả Nam Kỳ trở về Việt Nam năm 1949, bằng
những thủ tục hiến định rất cụ thể mà không ai có thể tranh cãi được.
Tuy nhiên, nói rằng Pháp trao
trả độc lập và thống nhứt cho Việt Nam, nhưng thật sự rất chậm chạp. Các cơ quan hành chánh, tài chánh, quân
sự vẫn còn thuộc quyền của Pháp trong thời gian chuyển tiếp. Thực quyền của cựu hoàng Bảo Đại lúc nầy
có thể rộng hơn khi ông làm vua trước năm 1945, nhưng cũng còn giới
hạn. Bảo Đại không có một đảng phái
riêng, hoặc một đội ngũ nhân sự để làm tham mưu cho ông. Những người cộng tác chung quanh cựu
hoàng đều là những người do Pháp tuyển chọn trước đây. Vì vậy, tất cả những hành động của cựu
hoàng đều bị Pháp theo dõi.
Chính thể QGVN là một lối
thoát cho những nhà hoạt động chính trị dân tộc và cho những người dân
không chấp nhận chủ nghĩa cộng sản.
Từ đây (1949), dân chúng bỏ vùng VM, hồi cư về thành phố để sinh
sống dưới chế độ Quốc Gia càng ngày càng đông. (Trích: Bảo Đại (1913-1997), Toronto, 2014.)
TRẦN GIA PHỤNG
(Toronto, Canada)
|