TPP và diễn biến dân chủ hóa Việt
Nam
© Đỗ
Thái Nhiên
Ngày 12 tháng 11 năm
2015, Văn Phòng Đại Diện Thương Mãi Hoa Kỳ đã công bố văn bản Hiệp Định TPP
(Trans-Pacific Strategic Economic Partnership Agreement-viết tắt
TPP) Hiệp định này hình thành bởi mười hai quốc gia: Malaysia, Singapore,
Brunei, Nhật Bản, Úc, Tân Tây Lan, Chile, Peru, Mexico, Canada, Việt Nam và
Hoa Kỳ. TPP bao gồm 30 chương và những thỏa thuân riêng giữa các quốc gia
trong TPP. Đây là một hiệp định rất lớn và rất mới của thế kỷ 21. Bài viết
này diễn tả mối quan hệ giữa TPP và diễn biến dân chủ hóa Việt Nam theo bốn
tiết mục sau đây:
1) Bản thể của TPP: TPP
là gì ?
2) Nhận thức của TPP: TPP
ra đời bởi những nhận định nào?
3) Phương pháp luận của
TPP: Bằng cách nào con người có thể biến cam kết TPP
thành hành động cụ thể?
4) TPP và diễn biến dân
chủ hóa Việt Nam
A. BẢN THỂ
CỦA TPP
Ngày 20 tháng 5, năm
2015, trước đông đảo công nhân tại nhà máy Boeing thuộc tiểu bang
Washington, nhận xét về TPP, ông John Kerry, Ngoại Trưởng Hoa Kỳ, tuyên bố:
“TPP không phải là
thỏa thuận thương mãi kiểu thời ông bà chúng ta. Nó không phải là hiệp định
thương mãi thời cha mẹ chúng ta. Thậm chí cũng không phải là hiệp định
thương mãi thời anh chị chúng ta. Đây là một thực thể mới, rất mới, và cuối
cùng đây là một hiệp định của thế kỷ thứ 21.”
Do đâu TPP có được danh
hiệu “Hiệp định của thế kỷ thứ 21” ?
Ngày 24/02/1848 bằng vào
“Tuyên Ngôn Của Đảng Cộng Sản”, Karl Marx mạnh mẽ xác quyết cá nhân giàu
bóc lột cá nhân nghèo là đại họa của loài người.
Năm 1958, học giả Tibor
Mende hoàn tất tác phẩm “Entre La Peur Et L’Espoir” (Paris, Editions du
Seuil, 1958. Dịch giả Tam Ích(XXX) “Nên Kinh Sợ Hay Nên Hy Vọng”, Phủ Quốc
Vụ Khanh/ĐTVH xb 1972, Saigon). Tibor Mende là tác giả đầu tiên nêu bật tư
tưởng: Tình trạng chênh lệch trầm trọng về mức sống giữa quốc gia giàu và
quốc gia nghèo mới chính là nỗi lo sợ của thế giới.
Tháng 11, năm 2015, mười
hai quốc gia trong TPP đã đồng thuận trên quan điểm rằng:
Tại quốc gia nghèo:
1) Giá phí tổn sản xuất,
nhất là công thợ, rất thấp,
2) Mặt hàng thương mãi
nghèo nàn cả về phẩm lẫn lượng,
3) Mãi lực của giới tiêu
thụ cực kỳ yếu kém.
Ba yếu tố trọng tâm vừa
nêu làm cho giao dịch thương mãi giữa quốc gia nghèo (đa số) và quốc gia
giàu ngày càng khô héo và bế tắc. Muốn cho hàng hóa lưu thông đều
đặn và phong phú trên khắp thế giới, con người cần
phải thâu ngắn khoảng cách về mức sống giữa quốc gia giàu và quốc gia
nghèo. Thâu ngắn ở đây xin được hiểu là toàn cầu hóa, công bằng hóa không
chỉ riêng kinh tế-thương mãi mà còn phải hợp lý hóa toàn bộ đời sống của
loài người trên mọi lãnh vực.
Đó là sử quan, là động
lực hối thúc lịch sử chuyển động.
Đó chính là bản thể của
TPP.
B. NHẬN
THỨC CỦA TPP
Nhận thức của TPP là công
việc khảo sát về các mối liên hệ giữa những suy nghĩ của con
người và sự ra đời của TPP. Với chủ đề “Diễn biến dân chủ hóa
Việt Nam”, bài viết này xin giới hạn tiết mục nhận thức của TPP trong câu
hỏi: do những mong muốn gì Hoa Kỳ và CSVN gặp nhau trong TPP?
1) Hoa Kỳ muốn gì? Hoa Kỳ có (4) điều muốn:
a) TPP thương mãi công
bằng: Toàn cầu hóa đời sống
của thế giới. Thâu ngắn khoảng cách về mức sống giữa quốc gia nghèo và quốc
gia giàu. Từ đó, hàng hóa của Hoa Kỳ cũng như của các quốc gia thành viên
TPP lưu thông dễ dàng và phong phú trên khắp thế giới. Nâng mức sống của
các xã hội tức là nâng đồng bộ đời sống vật chất (kinh tế) lẫn đời sống
tinh thần (nhân quyền). Tinh thần và vật chất là hai mặt không thể tách rời
của một bàn tay. Nâng mức sống như vừa kể chính là đề cao tính công bằng
trong hoạt động thương mãi của xã hội quốc tế. Nhớ rằng công bằng là thành
tố trội yếu của nhân quyền.
b) TPP: tôn trọng nhân
quyền là kỹ thuật xây dựng thương mãi thịnh vượng.
Thực hiện chi tiết và
tích cực điều muốn (a) nói ở trên, nhân quyền sẽ được tôn trọng toàn phần.
Nhân quyền không còn là ý niệm của đạo đức chính trị. Nhân quyền hiển nhiên
trở thành công cụ xây dựng guồng máy kinh tế tài chánh công bằng, thịnh
vượng và ổn định. Lúc này nhân quyền là thần dược hóa giải độc tài và các
loại khủng bố chống loài người.
c) TPP là gạch nối
chặt chẽ và bền bỉ giữa kinh tế và quốc phòng.
Ở đâu có quyền lợi tài
chánh lớn lao, ở đó có lực lượng quốc phòng hùng hậu nhằm bảo vệ khối tài
chánh quan trọng kia. Đó là quan hệ tất yếu giữa kinh tế và quốc phòng.
Người Việt Nam gọi là “đồng tiền liền khúc ruột”. Khúc ruột là ý chí bảo vệ
đồng tiền bằng sức mạnh quốc phòng.
Ông Brad Glosserman, giám
đốc Diễn Đàn Thái Bình Dương, một tổ chức nghiên cứu an ninh ở Hawai, nhận
định rằng: “Những gì TPP làm là trói buộc và nối kết Hoa Kỳ một cách
chặt chẽ hơn nữa với các nước trong khu vực và mối quan hệ quân
sự của Hoa Kỳ là nhằm tới mục tiêu làm cho các nước đồng minh tin chắc là
Hoa Kỳ bị ràng buộc với họ, và những địch thủ của Hoa Kỳ biết chắc là một
vụ tấn công nhằm vào các nước đó (thành viên của TPP) sẽ được coi là một vụ
tấn công nhằm vào nước Mỹ.” (Đài Tiếng Nói Hoa Kỳ VOA.20.5.2015)
d) TPP là xu thế, là
mệnh lệnh của lịch sử loài người.
TPP không hề là một sáng
tác tư tưởng của Hoa Kỳ hay của bất kỳ quốc gia nào. TPP là một khám phá về
quy luật sống hằng cửu của loài người trên địa bàn kinh tế quốc phòng nói
riêng, văn minh nhân bản nói chung. Hiện tại, Trung Quốc là quốc gia hàng
đầu vẫn mải mê thực hiện những tác vụ thương mãi bóc lột. Như vậy TPP mặc
nhiên loại bỏ Trung Quốc ra khỏi sân chơi kinh tế tân kỳ theo đúng xu thế
của lịch sử loài người. Đây là tác động loại bỏ hòa bình nhất, hữu hiệu
nhất. Loại bỏ để cải tạo. Cuối cùng, trong tương lai không xa, vì nhu cầu
tồn tại của chính Trung Quốc, Trung Quốc sẽ hoạt động thương mãi theo
đúng luật chơi của TPP.
2) CSVN muốn gì? CSVN có hai điều muốn
a) CSVN muốn mãi mãi
bám lấy bang giao Việt Cộng-Trung Cộng để thực hiện tội ác tham ô bất tận.
Không phải Việt Nam không
có khả năng xây dựng một nền kinh tế tự chủ. Do lòng tham ô và độc ác bất
tận, CSVN đã sản sinh ra tại Việt Nam một guồng máy kinh tế lệ thuộc chặt
chẽ vào Trung Quốc: Kinh tế gia công. Chỉ có làm ăn với Trung Quốc, CSVN
mới giàu to qua kiểu dành cho người Tàu độc quyền trúng thầu theo thủ tục
“bì thư chạy dưới gầm bàn”, thủ tục “lại quả”… Kế đó là bán biển, bán rừng,
bán luôn cả đất trên những yếu khu quân sự và bán buôn tất cả những gì có
thể giúp cho Việt Cộng và Trung Cộng béo mập trong hũ gạo Viêt Nam.
b) CSVN muốn vào TPP
để hạ cánh an toàn và để được bảo vệ bởi cái dù quốc phòng của Mỹ.
Tâm lý tham ô và độc ác
của CSVN như đã nói ở trên hiện bị đe dọa bởi hai tình huống:
– Tội ác của CSVN đối với
quần chúng Việt Nam cao như núi, lớn như rừng. CSVN không thể không bị lịch
sử trừng phạt.
– Trung Quốc sinh ra và
nuôi dưỡng CSVN. Sau 30.4.1975, CSVN theo Liên Xô, chống lại Trung Quốc.
Tháng 2/1979 chiến tranh Việt-Hoa diễn ra. Hận thù này chỉ được giải trừ
chừng nào CSVN chết dưới lưỡi kiếm của Trung Quốc.
Nhằm đương đầu với những
tai họa từ Trung Quốc hoặc từ quần chúng Việt Nam, CSVN một mặt tiếp tục
đàn áp thế lực chống đối để kéo dài cuộc tham ô, mặt khác, chuẩn bị những
bước đi cần thiết để vào TPP, tức là để vừa “hạ cánh an toàn” vừa “thoát
Trung” .
Vào TPP, CSVN được tiếng
đã giúp Việt Nam thoát Trung, đồng thời, được bảo vệ bởi cái dù quốc phòng
của Mỹ (xin xem 1c, mục B).
C. PHƯƠNG
PHÁP LUẬN CỦA TPP
1) Bằng cách nào TPP
nâng cao mức sống của một xã hội?
Thương mãi công bằng là
hoạt động thương mãi trong đó hàng hóa của các bên giao thương
đều được lưu thông dễ dàng, phong phú và ổn định. Muốn vậy, mức sống của
quốc gia nghèo cần phải nâng cao. Số thống kê cho thấy Việt Nam có 53 triệu
công nhân, chiếm 60% tổng dân số. Đây là thành phần chủ lực của xã
hội. Nâng cao mức sống của xã hội tức là nâng cao mức sống của
thành phần chủ lực vừa kể như một động tác kích hoạt bài toán nhân. Với sự
hỗ trợ của TPP, công nhân sẽ kéo mức sống của chính họ và của toàn xã hội
lên cao. Điều này giải thích lý do tại sao TPP gồm 30 chương, chương 19 là
chương dành riêng chỉ để nói về quyền của người lao động. Hai mươi chín
(29) chương còn lại là những chương viết chi tiết về vô số tác vụ kinh tế –
thương mãi công bằng và những tố tụng cần thiết để giải quyết tranh chấp.
2) Làm thế nào để CSVN
không thể chỉ thụ hưởng quyền lợi của TPP, nhưng lại tránh né thực thi
nghĩa vụ do TPP qui định?
Hiệp định TPP là thỏa
thuận của 12 quốc gia TPP. Thỏa thuận kia qui định rõ ràng và chi tiết
quyền lợi và nghĩa vụ của mỗi thành viên TPP trong việc xây dựng, bảo vệ và
phát triển một hệ thống thương mãi quốc tế công bằng và thịnh vượng. Trong
trường hợp quyền lợi và/hoặc nghĩa vụ của một hay nhiều quốc gia thành viên
bị vi phạm thì mọi tranh tụng sẽ được phân xử theo “Chương 28: Giải Quyết
Tranh Chấp”. Như vậy, những thỏa thuận trong TPP là luật cam kết của TPP.
Chương 28 là luật tố tụng của TPP. Nhìn về mặt phương pháp pháp lý, TPP là
một sản phẩm của luật pháp quốc tế hoàn hảo trên cả hai địa bàn: cam kết và
tố tụng. Với cấu trúc pháp lý tinh vi và thích nghi như vừa kể của
TPP, CSVN hoàn toàn không có khả năng “ăn bánh, không trả tiền”.
Mặt khác, CSVN vốn nổi
tiếng là thủ phạm bất tín hàng đầu trong những cam kết quốc tế. Nhằm tránh
mọi bất tín có thể xảy ra, bên lề TPP, Hoa kỳ còn thực hiện với CSVN các
thỏa thuận riêng như sau:
1) Việt Nam cho phép công
nhân thành lập công đoàn độc lập. Công đoàn độc lập có quyền đình công vì
lý do: tiền lương, giờ làm việc, quyền và điều kiện làm việc.
2) Công đoàn độc lập
không bị buộc phải gia nhập Liên đoàn lao động của chính quyền CSVN.
3) Công đoàn độc lập có
quyền liên kết với nhau và có quyền tìm sự hỗ trợ của các tổ chức lao động
quốc tế: American Federation of Labor-Congress of Industrial Organizations
(AFL-CIO)
4) Một ủy ban ba chuyên
viên lao động gồm Hoa Kỳ, Việt Nam và Tổ chức lao động quốc tế. Ủy ban
này chuyên trách theo dõi những tuân hành của Việt Nam về quyền của người
lao động.
5) Việt Nam cam kết sửa
đổi luật pháp Việt Nam sao cho phù hợp với luật TPP, nếu xảy ra mâu thuẫn
về luật pháp giữa Việt Nam và TPP.
6) Kể từ ngày TPP có hiệu
lực, Việt Nam có thời hạn 5 năm để thực thi nghiêm chỉnh những cam kết về
quyền của người lao động. Nếu Việt Nam có dấu hiệu không nghiêm chỉnh, quá
hạn 5 năm vừa kể, Hoa Kỳ sẽ từ chối cung ứng cho Việt Nam những
quyền lợi thương mãi như đã qui định trong TPP.
D. TPP VÀ
DIễN BIẾN DÂN CHỦ HÓA ViỆT NAM
Từ bản thể, nhận thức và
phương pháp của TPP, chúng ta nhận ra ngay những tác động sau đây của TPP
đối với diễn biến dân chủ hóa Viêt Nam:
1) Từ khi ra đời, CSVN
vẫn tự nhận “đảng CS là đảng của giai cấp công nhân”. Ngày nay sau thất bại
của “kinh tế quốc doanh”, thất bại của “kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa”, dưới áp lực của TPP, CSVN bắt buộc phải cởi trói cho công
nhân. Công nhân ly khai khỏi đảng bằng cách tự do thành lập và
gia nhập công đoàn độc lập. Tự do liên kết với các tổ chức lao động quốc tế
để dành lại trọn vẹn quyền sống và quyền làm việc của người lao động. Thái
độ “dành lại” vừa kể là sự mặc nhiên xác nhận: kiểu tự xưng “đảng CS là
đảng của giai cấp công nhân” là một tiếm danh, một phi chính danh, phi
chính nghĩa.
2) Mục tiêu hàng đầu của
TPP là nâng mức sống của xã hội Việt Nam lên cao. Mức sống của xã hội không
thể nâng cao nếu xã hội đó đang bị nhận chìm trong tham nhũng. Muốn vậy TPP
phải mạnh mẽ triệt tiêu tham nhũng, triệt tiêu mọi cơ hội phát triển của
những nhóm lợi ích (ký sinh của CSVN). Từ đó quyền lực tài chánh của
CSVN suy yếu kéo theo suy yếu quyền lực chính trị.
3) Về tự do kinh doanh,
TPP đòi hỏi tư doanh phải được nhanh chóng nâng lên ngang tầm với doanh
nghiệp nhà nước. Thế lực tài chánh của tư nhân lên cao, ngoài sự chi phối
của CSVN, là cơ hội để tư nhân củng cố uy thế chính trị. Trong hoàn cảnh
này, xã hội dân sự được vững vàng phát triển theo đúng nhu cầu vận hành của
quốc gia.
4) Mức sống của công nhân
Mỹ và công nhân Việt Nam có chênh lệch quá xa. Điều này làm cho giao dịch
thương mãi giữa Mỹ và Việt Nam trở nên không công bằng. Do vậy các tổ chức
lao động Mỹ, vì quyền lợi của công nhân Hoa Kỳ, sẽ vận dụng toàn lực trong
việc hỗ trợ công nhân Việt Nam đòi hỏi CSVN nhanh chóng và tích cực thực
hiện thỏa thuận TPP. Sự hợp tác giữa công đoàn độc lập Việt Nam và các
nghiệp đoàn lao động Mỹ sẽ là một lực đẩy cực mạnh giúp đời sống của công
nhân Việt Nam được tiến gần với mức sống của công nhân Mỹ cả về kinh tế lẫn
quyền làm công nhân, quyền làm người. Lực đẩy này còn là đôi tay bằng thép
trong việc mở rộng cánh cửa dân chủ nhân quyền cho Việt Nam.
5) Mười hai (12) quốc gia
trong TPP cùng cam kết sẽ xây dựng và phát triển một hệ thống thương mãi
công bằng và thịnh vượng. Điều này có nghĩa là mỗi thành viên TPP phải
là một xã hội công bằng và có mức sống ngang tầm với các quốc gia đồng ước.
Xã hội công bằng không là gì khác hơn là xã hội thượng tôn nhân quyền. Nhân
quyền là quả tim của dân chủ. Việt Nam thực thi trọn vẹn TPP, Việt Nam phải
là xã hội dân chủ nhân quyền.
Năm nhận định trình bày ở
trên là năm thao tác tuyệt đối hòa bình có công dụng tháo gỡ một cách từ từ
và nhẹ nhàng mọi nanh vuốt của chế độ độc tài – tham ô Hà Nội. Dân chủ nhân
quyền là hệ quả tất yếu của TPP. CSVN có thừa khôn ngoan để nhận ra kịch
bản “diễn biến hòa bình” nằm bên trong hiệp định TPP. Tuy nhiên, giữa hai ngả
đường, hoặc: chết dưới lưỡi kiếm của Trung Quốc về tội “phản Trung 1979”,
hoặc “thoát Trung” qua cửa ngõ TPP, CSVN không thể không chọn TPP.
© Đỗ
Thái Nhiên
|