TÌNH YÊU QUÊ HƯƠNG
QUA ÂM NHẠC CỦA NHẠC SĨ LÊ VĂN KHOA
Dương Viết Điền
Được biết nhạc sĩ Lê văn Khoa sinh ngày 10 tháng Sáu, năm 1933 tại tỉnh CầnThơ. Tháng Năm năm 1975, ông sang tỵ nạn tại Mỹ sau khi cộng sản cưỡng chiếm miền Nam Việt Nam. Ông là một người
đa năng đa hiệu trong nhiều lãnh vực. Vừa là một nhà giáo rất tận tâm, đức
độ, vừa là một nhạc sĩ tài ba lỗi lạc đã từng đoạt luôn một lần hai giải
thưởng sáng tác âm nhạc toàn quốc năm 1953 và giải Văn Học Nghệ Thuật Toàn Quốc, bộ môn Âm Nhạc và Nhiếp Ảnh,
năm 1968-1970. Ông là người đứng ra sáng lập Hội Ảnh Nghệ
Thuật Việt
Nam năm 1968 tại Việt Nam. Hội viên của hội này cũng đã đoạt được nhiều huy chương vàng khắp thế giới trước 1975 và gần đây chiềm nhiều huy chương
vàng tại Áo quốc. Nhiếp Ảnh Gia Lê Văn Khoa là người Việt Nam đầu tiên có hình ảnh
triển lãm tại Quốc Hội Hoa kỳ. Từ năm 1976 đến 1977, ông là giáo sư dạy môn
nhiếp ảnh cao cấp tại Ðại Học Salisbury State College ở Maryland. Để đi vào đề
tài, tôi xin được viết riêng phần “ Tình yêu quê hương qua âm nhạc” của nhạc
sĩ Lê văn Khoa.
Về đề tài âm nhạc với quê hương, tôi
liên tưởng đến các soạn nhạc gia danh tiếng thế giới đã viết nhạc ca ngợi
nơi sinh sống của mình như Johann Strauss Jr., nhạc sĩ Áo Quốc, với nhiều
tác phẩm về Vienne như: The Vienna Lady, Vienna, My Soul; There’s Only one
Vienna, Vienna Life, Tales of Vienna Woods, From the Homeland, From the
Banks of the Danube và có lẽ bài phổ thông hơn hết là By The Beautiful Blue
Danube mà chúng ta quen với tên Dòng Sông Xanh, ca ngợi dòng sông Danube chảy
ngang qua kinh thành Vienne
Nhạc sĩ Tiệp Khắc Bedrich Smetana với
tổ khúc giao hưởng danh tiếng Má Vlast (My Fatherland, Quê Hương Tôi), diễn
tả lịch sử, truyện thần thoại, cảnh đẹp của quê hương, được viết ngay
trước khi ông hoàn toàn mất thính giác.
Frederick Chopin đem các điệu dân vũ
của Ba Lan như Mazurka, Polonaise giới thiệu với thế giới. Johannes Brahms
với các điệu dân vũ Hung Gia Lợi (Hungarian Dances).
Béla Bartók chuyên sưu tầm và viết lại
dân ca Hung Gia Lợi để phổ biến ra khắp thế giới.
Nhưng cùng ý thức, hoàn cảnh và mục
tiêu chính trị, có lẽ Lê Văn Khoa gần gủi với Jean Sibelius hơn hết.
Jean Sibelius nhạc sĩ Phần Lan, làm
cho dân Phần Lan thức tỉnh để tranh đấu chống sự thống trị của Nga Sô qua
tác phẩm Finland Awakes (Phần Lan Bừng Tỉnh). Ðể tránh bị chính quyền Nga
Sô áp đảo, tác phẩm này được trình diễn với tên khác, là Impromptu dưới thời
cai trị của Nga. Ở đây ta thấy cái lợi của loại nhạc không lời, người ta né
lách được sự khống chế, nhưng vẫn giữ ý nghĩa trọn vẹn của nó mà không cần
lời ca. Xin nói thêm, Ðức Quốc Xã nhận thấy ảnh hưởng của nhạc không lời
nên cấm dân chúng chơi nhạc của F. Chopin tại thủ đô Ba Lan trong Ðệ Nhị Thế
Chiến. Họ cấm dân Ðức chơi nhạc của Felix Mendelssohn, một nhạc sĩ lừng
danh người Ðức gốc Do Thái.
Về bài Finland Awakes, về sau
Sibelius dùng một chữ vỏn vẹn cho tác phẩm, là Finlandia. Khi Phần Lan
thoát ách Nga, bài Finlandia được thêm lời ca và dùng như là quốc ca của Phần
Lan, dùng trong các buổi trình diễn nhạc nghệ thuật, và cả trong lễ ca của
giáo đường với lời ca tôn giáo.
Cũng trong chiều hướng này, Lê Văn
Khoa dùng âm nhạc cả loại nhạc có lời và nhạc không lời, để không những nói
lên tình tự quê hương, nhưng còn đi xa hơn, ông đem ý thức yêu quê hương và
chống áp bức của cường quyền để giới thiệu cho trẻ em và các thế hệ tiếp nối.
Trong giai đoạn cuộc chiến xâm lăng
của cộng sản lan rộng khắp miền Nam Việt Nam trong thập niên 60 và phần đầu
của thập niên 70, Nhac Sĩ Lê Văn Khoa đã viết trường ca Việt Nam Quê Hương
Mến Yêu để tiếc thương cho quê hương gấm vóc bị tàn phá bởi chiến tranh, rồi
trường ca Khóc Ði Em, nói lên thân phận của người dân trong cuộc chiến chống
cộng sản, ca khúc Bình Minh Quê Hương nói lên ước vọng một ngày mai tươi
sáng trên quê hương đen tối vì khói lửa chiến tranh. Tác phẩm của ông không
được phổ biến sâu rộng vì ông viết nhạc nghệ thuật, nhạc bác học chứ không
phải nhạc phổ thông, nên rất kén chọn người trình diễn cũng như người thưởng
thức.
Nếu nhà soạn nhạc Ludwig Van Beethoven của Đức có rất nhiều bản nhạc ngợi
ca tình yêu đôi lứa và mang nặng tình yêu quê hương như Egmont,
Wellington’s Victory, Zur Namensfeier, Consecration of the House, hay Franz
Peter Schubert của Áo với 600 Lieder, 9 bản Symphonis, nhạc cho Operas và cả
1000 tác phẩm chan chứa tình tự dân tộc, Richard Georg Strauss của Đức với
Till Eulenspiegel’s Merry Prank, Also Sprach Zarathustra, Don Quixote,
Sinfonia Domestica, An Alpine Syphony, Salome, Der RosenKavaliervv…bàng bạc
tình hoài hương, và Dvorak của Tiệp Khắc viết rất nhiều những tấu khúc dành
cho quê hương, thì sau 1975, ra nước ngoài, ông vẫn tiếp tục viết nhạc. Những tác phẩm của nhạc sĩ Lê Văn Khoa biểu lộ rất
chân thật tình yêu nồng nàn quê cha đất tổ, tình tự dân tộc, tình hoài
hương cũng như thường xuyên khắc khoải âu lo cho tổ quốc, quằn quại nhớ
nhung chất ngất quê mẹ Việt nam qua những tác phẩm trong các tập nhạc như
“Gọi Nhớ”, “Nhạc Việt Mến Yêu”, “The Beautiful Bamboo”, và tập “Dân Ca Việt Nam”. Đặc biệt trong tập nhạc “Hát Cho Ngày Mai” xuất bản năm 1982, ông sáng tác rất nhiều
ca
khúc ngắn cho trẻ em hướng về quê hương dân tộc với những lời
ca thật chân tình, chứa chan niềm thương nỗi nhớ vô biên về
nước Việt Nam yêu dấu. Chẳng hạn như những lời ca “
…Nếu có ai hỏi em: Em là người nước nào? Em sẽ xin thưa rằng:
Em là người Việt Nam trong máu xương; hồn linh em, gan, ruột
em, óc, tim, từng tế bào đây: Việt Nam”, trong bài “Nếu Có Ai Hỏi Em”, hay là những lời như “Diệt hết lũ ác
ra oai, phục hồi uy danh đất nước ngày mai. Đem bình an cho đất nước Việt Nam” trong bài “Tôi Ước”, hoặc là những lời ca như “Từ khắp bốn phương trời lớp lớp đi. Tìm đến
quê hương về đắp xây. Dù lắm khó khăn nào ai sá chi. Thề quyết hiến dâng tổ
quốc mến yêu. Giải phóng quê hương mình”.
Ngoài ra, ông còn phổ nhạc những bài ca dao Việt Nam đầy xúc động lòng người, đầy tình tự quê hương
tình yêu dân tộc để nhắc nhở mọi người dù ở quê người đất khách luôn luôn nhớ về quê nhà đã nghìn trùng xa cách.
Chẳng hạn như bài “ Trâu ơi”, bài “ Con Cò Mà Đi Ăn Đêm”, hay bài “ Lạy Trời Mưa Xuống ” v. v… Là một nhạc sĩ đích thực, ông sáng tác rất nhiều thể loại như nhạc nghệ thuật, dân ca, nhạc phổ thông và đặc biệt là những bài cho đại hợp
ca và hòa tấu. tấu khúc cho ban nhạc Đại Hợp Xướng Ngàn
Khơi và Hội Hiếu Nhạc Việt Mỹ trình diễn. Có lẽ ông ta là một trong những người đầu tiên lồng nhạc Việt Nam vào nhạc giao hưởng Tây Phương, để cho nhạc phương Tây quyện với
nhạc Việt Nam nhờ đó làm cho thế giới có thể biết nhạc Việt
ta như thế nào. Đây là vấn đề kỹ thuật rất khó thực hiện, và rất công phu. Ông chuyên môn sáng tác và soạn hòa âm cho dàn nhạc giao hưởng, đại hoà tấu, vậy mà ông ta đã thành công thật tuyệt vời! Nếu ai đã
từng tham dự những đêm hòa nhạc tại Fullerton năm 1978, nghe với bài “Se Chỉ Luồn Kim”, năm 1979, với bài “Vietnamese Rhapsody”, năm 1995 với
bài “Symphonic
Suite 1.9.7.5”, năm 1996 và 1997 với hai bài
“Trăng Rằm” và “Ngày Hội” mới biết nhạc sĩ Lê Văn Khoa đã tốn không biết bao nhiêu công sức
để làm
việc này như thế nào. Sự vỗ tay hoan hô, tán thưởng
nhiêt liệt của tất cả khán giả trong rạp là bằng chứng hùng hồn về sự thành
công của nhạc sĩ Lê Văn Khoa vậy.
Tổng số những tác phẩm âm nhạc của ông trên dưới 600 bài. Đây là một
công trình thật vĩ đại. Đặc biệt là CD “Lullaby” của Nhạc sĩ Lê Văn Khoa. Ngoài những tác phẩm diễn tả lại tình cảm của
cuộc đời, tình yêu nồng nàn của cuộc sống, hai ca khúc “Dawn Of My Country” và “Dream Of My Homeland” trong “Lullaby” là những ước mơ, hoài vọng cho một quê mẹ Việt Nam
được sáng ngời, một đất nước sẽ được yên vui trong thanh bình thịnh vượng.
Tuy nhiên trong dòng nhạc chảy như suối nguồn của nhạc sĩ Lê Văn Khoa, nổi bật và vĩ đại nhất vẫn là Symphony “Việt Nam 1975”, một đại tấu khúc viết nửa chừng rồi
lại ngưng, rồi lại viết, rồi lại ngưng. Nhưng với sự quyết tâm và kiên trì
theo năm tháng, nhạc sĩ Lê Văn Khoa đã hoàn thành xong tác phẩm vĩ đại này
sau 10 năm miệt mài viết nhạc bên đàn piano (1985-1995), vì là loại nhạc khó thực hiện nên phải đợi thêm 10 năm nữa mới được xuất hiện trên vòm trời âm nhạc hải
ngoại. Và những ước mơ, những khắc khoải đêm ngày của nhà soạn nhạc Lê Văn
Khoa đã được toại nguyện khi Symphony “Việt Nam 1975” chào đời như diều gặp gió, và đã tha hồ tung bay trên vòm trời âm nhạc hải ngoại như ta đã thấy, nhờ Kyiv Symphony Orchestra And Chorus của xứ Ukraine đã bằng lòng thu thanh CD Symphony “Việt Nam 1975” cho nhạc sĩ Lê văn Khoa. Điều nầy
đã làm cho tác giả “phỉ chí tang bồng”, hạnh phúc triền miên vì ông ta đã từng
ước mơ, đã từng ôm ấp hoài bảo này trong một thời gian dài đằng đẳng đến 20
năm trời ròng rã. Vì thế, đây là một niềm hãnh diện vô biên cho nhạc sĩ Lê
văn Khoa nói riêng và cho nền âm nhạc Việt Nam nói chung.
Chính vì “Symphony Việt Nam 1975” là một đại tấu khúc tuyệt vời như vậy
nên rất nhiều nhạc sĩ ngoại quốc không ngớt ca ngợi. Nhạc trưởng của dàn nhạc
Kyiv Symphony Orchestra và dàn nhạc The Ukranian National Opera and Ballet
là Alla Kulbaba viết: “Nhạc của Lê Văn Khoa thật tinh vi, đầy xúc động,
rất mực nhân hậu thân thiết... Qua tác phẩm “Symphony Việt Nam 1975”, Lê
Văn Khoa chứng tỏ ông là nhà viết đại tấu khúc có tài. Ông dùng thể loại
Tây phương nhưng đặt trên căn bản nguồn gốc quốc gia.” Riêng Tiến sĩ
Nghệ Thuật Âm Nhạc Vũ Tôn Bình, ông nhận xét về nhạc sĩ Lê Văn Khoa như
sau: “Đối với người cùng thời, Lê Văn Khoa luôn luôn ở đầu giới tuyến;
là người đưa cao ngọn đuốc và ánh sánh của ngọn đuốc ấy sưởi ấm lòng nhiều
người ở các ngả rẻ của xã hội và những khúc quanh quan trọng trong lịch sử
dân Việt”. Ta hãy nghe thêm một nhạc sĩ nổi tiếng của xứ Ukraine, nữ nhạc
sĩ Nina Rodionova, nói về nhạc sĩ Lê văn Khoa như sau: “
…..You are a talented painter and a composer in one person. Each piece of
your album is a picture. When I listen, I see Vietnam with its wonderful
rich nature. …But most important, in this music I can hear composer’s
feelings, I can feel his soul. It always excited me. I’m very thankful to
you for your light charming music.” ( Trích từ bức thư gởi cho nhạc sĩ
Lê văn Khoa.)
Ai cũng biết rằng, Richard Georg Strauss là một nhà soạn nhạc vĩ đại của
Đức. Đến khi Nazi Ðức quốc xã lên nắm chính quyền, rất nhiều nhà soạn
nhạc không muốn cộng tác với họ Nazi, nhưng Richard Georg Strauss lại hợp tác với
chế độ độc tài Nazi tại hạt Third Reich và đã được Joseph Goebbels bổ nhiệm
làm giám đốc âm nhạc viện The Reichsmusikkammer. Thế rồi ông ta chơi thân với
các sĩ quan cao cấp của Nazi. Chính điểm này đã khiến cho rất nhiều nhà soạn
nhạc không muốn nhìn ông ta nữa. Bởi vậy có lần nhà soạn nhạc đương thời là
Arturo Toscanini nói về Richard Georg Strauss như sau:
“Đối với nhà soạn nhạc Strauss, tôi kính cẩn ngả nón chào . Nhưng đối với
Strauss là con người, tôi lại ngoảnh mặt không nhìn ông ta nữa” (To Strauss
the Composer, I take off my hat. To Strauss the Man, I put it back on
again” ).
Vậy thì đối với Nhà soạn nhạc Lê văn Khoa, vì ông ta dứt
khoát bỏ nước ra đi tìm tự do ở quê người đất khách, quyết không hợp tác với
chế độ độc tài tại Việt Nam. Vì vậy cho dù ở đất khách quê người, ông vẫn luôn
luôn hướng về quê hương để rồi ngày đêm sáng tác những bài ca, những khúc nhạc hiến dâng cho quê mẹ mến yêu. Đã thế ông
ta còn chống lại chế độ độc tài tại Việt Nam với bất cứ giá nào.Vì vậy tôi
có thể mượn câu nói của Nhạc Trưởng Arturo Toscanini nói về Strauss như đã nêu ở trên,
nhưng phần sau câu thứ hai thì tôi đổi lại
khác hẳn. Tôi xin được trang trọng nói rằng:
“Đối với nhà soạn nhạc Lê Văn Khoa, tôi xin kính cẩn ngả nón chào. Còn
đối với Lê Văn Khoa là con người, tôi cũng xin được kính cẩn ngả nón chào
luôn vậy.” (To Khoa Van Le the Composer, I take
off my hat. To Khoa Van Le the Man, I take off my hat too.)
Dương Viết Điền
|