30-4-1975:
THẮNG CUỘC HAY TỘI ĐỒ?
Trần
Gia Phụng
Chiến
tranh Việt Nam kết thúc ngày 30-4-1975.
Cho đến nay, cộng sản Việt Nam (CSVN) thường tự hào họ là bên thắng
cuộc. Nhân mùa Quốc hận năm nay, có
lẽ nên thử trở lại vấn đề ai là bên thắng cuộc trong cuộc chiến 1960-1975?
1.- THẾ NÀO LÀ BÊN THẮNG CUỘC?
Trước
hết cần phải xác định thế nào là thắng cuộc thì mới có thể biết bên nào thắng
cuộc? Thông thường, bên thắng cuộc
là bên thực hiện được mục đích do chính bản thân đặt ra trước khi tham chiến.
Những
bên tham chiến vừa qua là: Việt Nam
Dân Chủ Cộng Hòa (VNDCCH) hay Bắc Việt Nam (BVN), Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam
(MTDTGPMN), Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) hay Nam Việt Nam (NVN). Ngoài ra, phía BVN có Liên Xô và Trung Quốc
viện trợ và gởi quân làm cố vấn và bảo vệ BVN. Phía NVN có Hoa Kỳ viện trợ và gởi quân
tham chiến.
Việt
Nam Dân Chủ Cộng Hòa và MTDTGPMN tuy hai mà một, do đảng Lao Động (LĐ) điều
khiển. Tại Hà Nội, từ 5-9 đến
10-9-1960, diễn ra Đại hội đảng LĐ lần thứ III, được mệnh danh là "Đại
hội xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu tranh thống nhất nước nhà", đưa
ra hai mục tiêu lớn của đảng LĐ là xây dựng BVN tiến lên xã hội chủ nghĩa
và “giải phóng hoàn toàn miền Nam...”
(Lê Mậu Hãn chủ biên, Đại cương lịch
sử Việt Nam, tập III, Hà Nội: Nxb Giáo Dục, 2001, tt. 154-155.) Sau Đại hội nầy, đảng LĐ thành lập
MTDTGPMNVN, ra mắt tại Hà Nội ngày 12-12-1960 và ra mắt tại xã Tân Lập, quận
Châu Thành, tỉnh Tây Ninh (vùng chiến khu Dương Minh Châu) ngày 20-12-1960.
Trong
chế độ dân chủ, quyền tuyên chiến, quyền quyết định chiến tranh, một vấn đề
tối quan trọng, liên hệ đến vận mạng đất nước, thuộc về quốc hội, đại diện
toàn dân quyết định. Ở BVN, quyết định
chiến tranh và tuyên chiến, lại do đảng LĐ quyết định, chứ không do quốc hội,
chứng tỏ rõ ràng rằng đảng LĐ nắm quyền tuyệt đối ở BVN, và nhà cầm quyền
Hà Nội chỉ là bù nhìn của đảng LĐ mà thôi. Thế là BVN khởi binh đánh NVN.
Tuy
viện cớ thống nhất đất nước, nhưng thực sự đảng LĐ quyết tâm đánh chiếm miền
Nam vừa vì tham vọng bành trướng cố hữu của CS, vừa làm tay sai quốc tế cho
Liên Xô và Trung Quốc. Lê Duẫn bí
thư thứ nhất đảng LĐ, đã từng nói: “Ta
đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô, đánh cho Trung Quốc.”
(Vũ Thư Hiên, Đêm giữa ban ngày, Nxb. Văn Nghệ,
California, 1997, tr. 422 và tiết lộ của Nguyễn Mạnh Cầm, ngoại trưởng CSVN
từ 1991 đến 2000, trong cuộc phỏng vấn của đài BBC ngày 24-1-2013.)
Liên
Xô (LX) và Trung Quốc (TQ) đều mang đặc tính chung của các nước CS là luôn
luôn chủ trương bành trướng, bá quyền.
Tại LX, ngày 15-10-1964, Leonid Brezhnev đảo chánh và lên làm thư ký
thứ nhất đảng CSLX thay Nikita Khrushchev.
Brezhnev, tăng cường viện trợ BVN, gởi quân và chuyên viên sang giúp
BVN. Đây là khởi đầu chủ trương can
thiệp mới của Liên Xô, mà về sau các nước Tây phương gọi là chủ thuyết
Brezhnev, theo đó. “Nguyên lý Xô viết
về luật quốc tế khẳng định quyền của Cộng đồng Cộng sản can thiệp bất cứ ở
đâu mà các lực lượng nội tại và ngoại lai thù địch đối với chủ nghĩa cộng sản
tìm cách biến đổi sự phát triển một nước theo chủ nghĩa xã hội hướng về chủ
nghĩa tư bản, một tình thế được xem có tính cách đe dọa đối với tất cả các
nước cộng sản.” (The New Lexicon
Webster's Encyclopedic Dictionary of English Language, Nxb. Lexicon,
New York, 1988, mục "Brezhnev Doctrine".)
Trung
Quốc ở sát ngay phía bắc của Việt Nam.
Từ năm 1950, TQ giúp CSVN vừa vì sự cầu viện của CSVN và của Hồ Chí
Minh, vừa vì lợi ích an ninh bản địa TQ.
Mao Trạch Đông đã từng nói: “Không
thể chỉ nói Trung Quốc giúp Việt Nam, phải nói rằng Việt Nam cũng giúp Trung
Quốc là sự giúp đỡ lẫn nhau.”(La Quý Ba, “Mẫu mực sáng ngời của chủ
nghĩa quốc tế vô sản”, trong Ghi chép
thực về việc đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc viện trợ Việt Nam chống Pháp,
một nhóm tác giả, Bắc Kinh: Nxb Lịch sử đảng Cộng Sản Trung Quốc, 2002, Trần
Hữu Nghĩa, Dương Danh Dy dịch. Montreal: Nxb. Tạp chí Truyền Thông (in lại), số 32 & 33, 2009, tr. 27.)
Thật
vậy, từ năm 1956, mối bang giao TQ - LX rạn nứt. Liên Xô bao vây TQ ở phía bắc và phía
tây. Phía tây nam, Ấn Độ chận TQ. Phía đông (biển Thái Bình) là hàng rào ba
nước đồng minh của Hoa Kỳ và ký hiệp ước phòng thủ song phương với Hoa Kỳ
là Nam Triều Tiên, Nhật Bản và Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan). Nếu để cho
Hoa Kỳ bao vây luôn BVN, thì TQ bị chận hết các đường ra biển. Vì vậy, TQ giúp BVN chẳng những do ý thức
hệ CS và sự cầu viện của BVN, nhưng đồng thời cũng do TQ bị bao vây các mặt,
trừ một phần phía nam TQ là BVN.
Năm
1954, chính phủ Quốc Gia Việt Nam không đồng ý chia hai đất nước, nhưng nghiêm
chỉnh thi hành hiệp định Genève (20-7-1954). Thủ tướng Ngô Đình Diệm tuyên bố thành lập
nền Cộng Hòa năm 1955. Việt Nam Cộng
Hòa theo chế độ tự do dân chủ, dầu hạn chế vì chiến tranh, duy trì nền văn
hóa dân tộc cổ truyền, hệ thống giáo dục khai phóng, cởi mở, quyết tâm chiến
đấu để bảo vệ nền tự do dân chủ ở NVN, chống lại cuộc xâm lăng của
BVN. Tuy nhiên, vì yếu sức, VNCH phải
nhờ đến sự giúp đỡ của Hoa Kỳ.
Sau
thế chiến thứ hai, từ năm 1946, trên thế giới bắt đầu xảy ra chiến tranh lạnh
giữa hai khối tư bản và CS. Hai khối
tư bản và CS tranh chấp quyết liệt trên toàn cầu. Tuy vậy Hoa Kỳ và Liên Xô tránh đụng độ
trực tiếp vì cả hai đều thủ đắc võ khí nguyên tử, sợ chiến tranh nguyên tử
xảy ra thì cả hai đều thiệt hại.
Tình trạng tranh chấp căng thẳng nhưng không đánh nhau nầy, gọi là
chiến tranh lạnh.
Trong
chiến tranh lạnh, Liên Xô và khối CS dùng chiêu bài giải phóng dân tộc để
tuyên truyền và bành trướng thế lực.
Hoa Kỳ và khối tư bản cho rằng khi một nước bị CS chiếm quyền, thì
các nước lân bang dần dần sẽ bị mất vào tay CS, nghĩa là một quân cờ domino
sụp đổ, thì các quân cờ domino khác cũng sụp theo. Đó là nguồn gốc thuyết domino tại các nước
Tây phương, nhất là Hoa Kỳ.
Vì
vậy, khi TQ (ngày 18-1-1950) rồi LX (ngày 30-1-1950) thừa nhận nhà nước VNDCCH
do Hồ Chí Minh làm chủ tịch, thì Hoa Kỳ (ngày 4-2-1950) và Anh (ngày
7-2-1950) thừa nhận chính phủ QGVN do Bảo Đại làm quốc trưởng. Từ đó, Hoa Kỳ giúp Pháp và QGVN chống lại
CSVN.
Sau
hiệp định Genève, Việt Nam bị
chia hai. Để ngăn chận làn sóng CS ở
Đông Á, nhất là ngăn chận Trung Quốc xuống phía nam, Hoa Kỳ vận động ký kết
Hiệp ước Hỗ tương Phòng thủ Đông Nam
Á (Southeast Asia Collective
Defence Treaty) tại Manila, thủ đô Phi Luật Tân, ngày 8-9-1954. Từ đó ra đời Tổ chức Liên phòng Đông Nam
Á (Southeast Asia Treaty Organization, SEATO), gồm các nước Australia (Úc),
France (Pháp), New Zealand (Tân Tây Lan) Pakistan (Hồi Quốc), Philippines
(Phi Luật Tân), Thailand (Thái Lan), United Kingdom (Anh), và United States
of America (Hoa Kỳ).
Trong
phụ bản (protocol) của hiệp ước SEATO, ba nước Cambodia (Cao Miên), Laos
(Lào) và NVN được liệt kê trong vùng lãnh thổ được SEATO bảo vệ. Hoa Kỳ dựa vào phụ bản nầy để minh chứng
sự ủng hộ của họ đối với các chế độ chống cộng ở Đông Nam Á, và giúp xây dựng
NVN thành một “tiền đồn chống cộng”.
Lúc đầu, Hoa Kỳ chỉ gởi cố vấn sang giúp NVN. Từ năm 1965, Hoa Kỳ đưa quân trực tiếp
tham chiến.
Tuy
nhiên, vào cuối thập niên 60, tình hình thay đổi. 1) Giới phản chiến Hoa Kỳ hoạt động mạnh,
yêu cầu chính phủ Hoa Kỳ rút quân khỏi Việt Nam. 2) Trong khối CS, cuộc
tranh chấp LX-TQ càng ngày càng trầm trọng. Chính phủ Hoa Kỳ liền thay đổi chính sách
ngoại giao toàn cầu. Khi lên cầm quyền
năm 1969, tổng thống Hoa Kỳ Richard Nixon quyết định rút quân ra khỏi NVN bằng
kế hoạch Việt Nam hóa chiến tranh nhằm yên lòng dân chúng Hoa Kỳ; đồng thời
Nixon thay đổi chính sách ngoại giao đối với khối CS, hòa hoãn với Trung Quốc
và Liên Xô, đào sâu sự chia rẽ giữa LX và TQ.
Richard
Nixon sang thăm TQ từ 21-2 đến 28-2-1972, và ký kết với thủ tướng Trung Quốc
Chu Ân Lai bản Thông cáo chung Thượng
Hải (Shanghai) ngày 28-2-1972, làm nền tảng cho chính sách của cả hai bên về
Đông Á cho đến ngày nay. Tiếp theo, Richard
Nixon thăm Liên Xô từ 22 đến 30-5-1972, cùng Leonid Brezhnev ký kết hiệp ước
SALT (Strategic Arms Limitation Treaty = Hiệp ước giới hạn võ khí chiến lược)
ngày 26-5-1972, và hứa hẹn sẽ cho Liên Xô quy chế tối huệ quốc (most
favored nation).
Sau
hai cuộc viếng thăm nầy, Hoa Kỳ ký hiệp định Paris ngày 27-1-1973, đơn phương rút quân khỏi Việt Nam. Quốc hội Hoa Kỳ giảm viện trợ cho
VNCH. Quân đội VNCH thiếu nhiên liệu,
thiếu phương tiện chiến đấu, đành buông súng; VNCH sụp đổ ngày 30-4-1975.
2.- AI
LÀ BÊN THẮNG CUỘC
Dựa
trên mục đích của các bên tham chiến và diễn tiến tình hình chiến tranh Việt
Nam được sơ lược trên đây, vấn đề đặt ra là ai là bên thắng cuộc trong cuộc
chiến 1960-1975?
Trước
hết và rõ ràng nhất, sau cuộc chiến vừa qua, người CS thường huyênh hoang tự
hào là họ là kẻ thắng cuộc. Quả thật,
ngày 30-4-1975, VNCH sụp đổ, VNDCCH chiếm được NVN, thực hiện mục tiêu “giải
phóng” miền Nam đã được đề ra trong Đại hội III đảng LĐ ở Hà Nội từ ngày 5
đến ngày 10-9-1960. Tuy nhiên, sau
khi CS làm chủ toàn bộ đất nước, CS có thật sự là bên thắng cuộc hay không?
Ngay
tức khắc, sau khi CS chiếm NVN, khoảng 150,000 người di tản ra nước
ngoài. Tiếp đến là phong trào vượt
biên. Dầu CS kiểm soát gắt gao, khoảng
trên 1,500,000 bỏ nước ra đi bằng tất cả các phương tiện, “cây cột đèn cũng muốn ra đi”, trong đó
khoảng 500,000 người bỏ mình ở biển Đông.
Biển Đông trở thành nghĩa địa biển lớn nhất thế giới. Ở trong nước, nhiều phong trào nổi lên chống
đối CS đều bị đàn áp. Như thế, CS
chiến thắng bằng súng ống, chiếm được đất đai, nhưng hoàn toàn thất bại về
nhân tâm, không chiếm được lòng người, không thống nhất được lòng dân.
Những
người ra đi bị ghép tội “phản động”, chạy theo bơ sữa “đế quốc Mỹ” năm
1975, sau đó bỗng chốc trở thành “khúc ruột ngàn dặm”, “Việt kiều yêu nước”. Nhà nước CS kêu gọi hòa giải hòa hợp với “khúc
ruột ngàn dặm”, nhưng chỉ có một nhóm người đếm được trên đầu ngón tay, tìm
kiếm chút hư danh, về nước nói là “đóng góp xây dựng đất nước”, trong khi đại
đa số người Việt hải ngoại chẳng có nhu cầu hòa giải hòa hợp với CS toàn trị. Về Việt Nam du hí thì có, nhưng về Việt
Nam để giúp chế độ CS thì không. Như
thế, CSVN có phải là “bên thắng cuộc” hay không?
Phải
vay nợ súng ống thì mới có súng ống chiến đấu. Cộng sả n Vay nợ LX và TQ. Vay nợ thì phải trả nợ. Sau năm 1975, CSVN trả nợ LX, giao hải cảng
Cam Ranh cho LX và muốn chạy theo LX để xù nợ TQ, liền bị TQ dạy cho một
bài học năm 1979, làm 6 tỉnh biên giới tan hoang. Năm 1990, khối Đông Âu sụp đổ, CSVN quay
qua đầu phục TQ ở Thành Đô (TQ), đưa đến các hiệp ước 1999 và 2000, mất đất
mất biển. Sau đó còn nhiều chuyện tiếp
theo, thuê rừng, khai thác bauxite, tấn công ngư dân...
Sau
năm 1975, một điểm nổi bật là hầu hết người BVN, từ cán bộ, bộ đội, đến thường
dân, khi vào Nam đều học theo cách sống của người Nam, chứ hầu như người
Nam không học theo người Bắc. Người
Bắc (1975) thích ăn bận theo người Nam, đua đòi thời trang miền Nam, nghe
nhạc Nam mà CS gọi là "nhạc vàng", đọc sách Nam, từ tiểu thuyết trữ tình, tiểu thuyết kiếm hiệp đến văn
chương, triết học, và làm tất cả các cách để thành người Nam. Ngay cả những cán bộ cao cấp trong Bộ
chính trị đảng LĐ (năm 1976 cải danh thành đảng CS) cũng từ bỏ bộ áo quần đại
cán cao cổ để ăn bận Âu phục theo kiểu người Nam. Chẳng những thế, hầu như toàn thề BVN
cũng được Nam hóa, trang bị bằng sản phẩm của NVN, nghĩa là được đồng hóa
theo NVN. Cho đến nay, CSVN muốn trở lại con đường của NVN, duy chỉ muốn bảo
vệ quyền lực đảng CSVN. Ngang đây,
cũng tạm đủ để cho thấy CSVN có phải là kẻ thắng cuộc hay không?
Về
phần VNCH, ngày 30-4-1975, quân đội VNCH bị thiếu tiếp liệu, súng ống, đành
phải ngưng chiến đấu. Chính phủ VNCH
sụp đổ. Cộng sản đặt ách thống trị
lên NVN. Tuy nhiên, dân chúng còn bị
kẹt lại ở trong nước, vẫn quy hướng về chính thể VNCH, vẫn mong muốn hít thở
không khí tự do dân chủ của VNCH, luôn luôn tưởng nhớ VNCH, nghĩa là linh hồn
VNCH vẫn còn đó. Vì bị đàn áp, dân
chúng đành lặng thinh, nhưng ai ai cũng mong sẽ có ngày giải trừ CS, tái
xây dựng chế độ Cộng hòa. Vậy làm thế
nào giải thích hiện tượng nầy? Phải
chăng VNCH chỉ tạm thời thất bại năm 1975 nhưng vẫn chưa bị tiêu diệt. Anh linh VNCH còn đó. Ai cũng tin sẽ có ngày VNCH phục
sinh. Thời gian sẽ trả lời.
Về
các nước ngoài: Hoa Kỳ mang tiếng là
đã bị CSVN đánh cho “Mỹ cút”, nhưng thật sự Mỹ không cút, Mỹ cũng chẳng “tháo
chạy” (như tựa đề quyển sách Khi đồng
minh tháo chạy), mà phải nói cho thật đúng diễn tiến lịch sử là Mỹ tức
Hoa Kỳ ngưng, không tiếp tục hiện diện ở Việt Nam vì thay đổi chiến lược
toàn cầu của họ, và Hoa Kỳ đã thành công trong các mục tiêu chiến lược của
họ: Rút quân khỏi Việt Nam, giải quyết
chuyện nội bộ Hoa Kỳ, bắt tay với Trung Quốc, và cuối cùng chiến thắng cuộc
chiến tranh lạnh với LX khi LX sụp đổ năm 1991. Riêng nội bộ Hoa Kỳ, nhân dân Hoa Kỳ mất
gần 60,000 thanh niên ưu tú trong chiến tranh Việt Nam. Đổi lại Hoa Kỳ thí nghiệm nhiều loại võ
khí tối tân tại Việt Nam, kể cả những chuyến oanh kích thử nghiệm đầu tiên
của B52. Tư bản kỹ nghệ võ khí Hoa Kỳ
thu lợi như thế nào thì không được thống kê đầy đủ.
Ngoài
ra, một số đồng minh của Hoa Kỳ cũng hưởng lợi: Nhật Bản phục hưng nhanh chóng nền kỹ nghệ
sau thế thiến thứ hai nhờ cung cấp hàng tiêu dùng cho Việt Nam, nhất là cho
quân nhân Hoa Kỳ phục vụ tại Việt Nam.
Thái Lan, Mã Lai, Phi Luật Tân nhờ VNCH làm lá chắn ngăn chận làn
sóng CS và các nước nầy kịp phục hồi kinh tế và an ninh để chống lại sự
bành trướng của TQ.
Trung
Quốc thu lợi nhiều mặt. Trước hết,
thông qua chiến tranh Việt Nam, TQ bắt tay được với Mỹ năm 1972, được Mỹ thừa
nhận chỉ có một nước TQ, công nhận Đài Loan là một phần lãnh thổ TQ, công
nhận không kiếm cách làm chủ khu vực châu Á-Thái Bình Dương, và chống đối bất
kỳ nước nào hay nhóm nước nào muốn làm bá chủ vùng nầy, ý ám chỉ Liên
Xô. Đó là những điều TQ mong muốn nhất.
Về
biển Đông, Phạm Văn Đồng ký công hàm ngày 14-9-1958 thừa nhận Hoàng Sa và
Trường Sa là của TQ để TQ viện trợ cho BVN đáng NVN. Vì vậy năm 1974, nhân cơ hội VNCH bị Mỹ bỏ
rơi, bị BVN tấn công dồn dập, TQ ra tay cướp đoạt Hoàng Sa thuộc lãnh thổ
VNCH. Sau năm 1975, khi CSVN chạy
theo LX, muốn trốn nợ TQ. Trung Quốc
liền đánh 6 tỉnh biên giới năm 1979, dạy cho CSVN một bài học. Vì vậy, khi Đông Âu lung lay, CSVN qua
Thành Đô xin đầu hàng TQ năm 1990, đưa đến hai hiệp ước 1999 và 2000. Trung Quốc chiếm đất, chiếm biển của Việt
Nam. Như vậy, tuy không được tiếng
là bên thắng cuộc, nhưng TQ là kẻ thu hoạch nhiều nhất sau chiến tranh Việt
Nam.
Liên
Xô viện trợ cho BVN không kém gì TQ.
Đầu năm 1975, viện trợ của LX cho BVN để BVN đánh NVN tăng gấp bốn lần
so với trước. (Henry Kissinger, Years
of Renewal, New York: Simon & Schuster, 1999, tr. 481.) Sau năm 1975, Việt Nam gia nhập khối
COMECON (Council for Mutual Economic Assistance tức Hội đồng Tương trợ Kinh
tế) ngày 27-6-1978. Ngày 3-11-1978,
Lê Duẫn, tổng bí thư đảng CSVN, sang Liên Xô và ký với Leonid Brezhnev, tổng
bí thư đảng CSLX, Hiệp ước Hai mươi
lăm năm Hỗ tương và Phòng thủ giữa hai nước. Từ sau hiệp ước nầy, hải quân Liên Xô bắt
đầu tiến vào sử dụng hải cảng Cam Ranh làm căn cứ tại Viễn đông.
Có
hai ảnh hưởng gián tiếp đáng ghi nhận sau chiến tranh Việt Nam: 1) Khi rời bỏ Việt Nam năm 1975, Hoa Kỳ chủ
trương để lại nguyên vẹn và không phá hủy tất cả máy móc thiết bị mà Hoa Kỳ
giao lại cho VNCH. Cộng sản rất mừng
tiếp nhận được những chiến lợi phẩm nầy.
Sau ngày 30-4-1975, đại diện các nước CS trên thế đến thăm viếng NVN,
chúc mừng sự thành công của CSVN, rất ngạc nhiên về những chiến lợi phẩm nầy,
sự tiến bộ vượt bậc về khoa học, kỹ thuật, y khoa của Hoa Kỳ so với Liên Xô
mà lâu nay Liên Xô bưng bít, giấu kín.
Nhờ đó, các nước Đông Âu mới biết rõ sự cách biệt giữa Hoa Kỳ và Liên
Xô, khiến họ giảm tin tưởng đối với đàn anh Liên Xô và bắt đầu nhìn về phía
Hoa Kỳ, nhập cảng sản phẩm của Hoa Kỳ, tạo tâm lý thuận lợi cho sự sụp đổ của
khối CS. 2) Làn sóng vượt biên vĩ đại
của người Việt Nam chạy ra nước ngoài tỵ nạn CS sau năm 1975, khiến cho
lương tâm thế giới, nhất là các nước Tây Âu, lâu nay thiên tả là một “thời
trang”, bừng tỉnh về giấc mộng “xã hội chủ nghĩa”, ghê sợ và chán ghét các
chế độ CS. Các nước Tây Âu quay qua
giúp đỡ các phong trào kháng chiến ở các nước CS Đông Âu, góp phần dần dần
đưa đến sự sụp đổ của hệ thống CS Đông Âu.
KẾT
LUẬN
Đặt
kết quả chiến tranh Việt Nam trong chiều rộng của không gian và trong chiều
dài của thời gian, mà vẫn khó có thể thẩm định ai là bên thắng cuộc. Tuy nhiên chắc chắn có hai điều rất rõ ràng:
1) Toàn dân Việt Nam ở cả Bắc và Nam Việt Nam đều thua cuộc về nhiều mặt. Ngoài thiệt hại vật chất, nhà cửa, ruộng
vườn, hàng triệu gia đình tan nát vì chủ nghĩa CS, hàng triệu người tử vong
vì chiến tranh do CS gây ra, nền văn hóa và đạo đức suy đồi trầm trọng. 2) Thủ phạm của tấn thảm kịch nầy chính là kẻ
đã du nhập chủ nghĩa CS ngoại lai bạo tàn, chính là kẻ đã rước voi về giày
mồ tổ tiên, chính là kẻ chủ trương gây chiến để phục vụ quyền lợi ngoại
bang và chỉ làm lợi cho ngoại bang dù là CS hay tư bản. Chúng là những tên phản quốc dâng đất,
dâng đảo, dâng biển cho kẻ thù phương bắc.
Đám nầy không ai khác hơn là tập đoàn lãnh đạo đảng CSVN. Sau năm 1975, chúng dần dần lộ diện. Chúng mất trắng tất cả vốn liếng chính trị
mà chúng đã dày công lừa phỉnh toàn dân Việt Nam và thế giới. Chúng không phải là bên thắng cuộc. Chúng chẳng những trở thành kẻ thua cuộc,
mà chúng còn là tội đồ dân tộc. Lịch
sử sẽ ghi tội, hậu thế sẽ đời đời lên án.
TRẦN
GIA PHỤNG
(Toronto,
Quốc hận 2013)
|