CHÀO MỪNG 2009
KỶ NIỆM SÁU
MƯƠI NĂM QUỐC GIA VIỆT NAM
Bài 4 (Kết):
QUỐC GIA VIỆT NAM
Trần Gia Phụng
1.- VIỆT NAM
THỐNG NHẤT
Nguyên
dưới đời vua Tự Đức, toàn thể Nam
Kỳ lục tỉnh (sáu tỉnh Nam Kỳ), từ
tỉnh Biên Hòa vào đến Cà Mau, trở thành thuộc
địa của Pháp sau hòa ước ngày 15-3-1874. Vì vậy, sau hòa
ước năm 1874, về phương diện hành chánh,
biên giới phía nam nước Việt Nam chỉ ngang tới
tỉnh Bình Thuận.
Sau đó, Pháp đặt nền bảo
hộ trên toàn cõi Việt Nam bằng hòa ước ngày
6-6-1884. Hòa ước năm 1884 chỉ
đề cập lãnh thổ Việt Nam từ Bình Thuận
trở ra bắc mà thôi, còn sáu tỉnh Nam Kỳ vẫn là
thuộc địa của Pháp theo hòa ước 1874.
Năm
1945, sau khi đảo chánh lật đổ Pháp ở
Đông Dương, Nhật Bản đồng ý trả
miền Nam lại cho Việt Nam dưới thời chính
phủ Trần Trọng Kim, và chính phủ nầy gọi là
Nam Bộ. Việc nầy
chưa kịp thi hành, thì Hồ Chí Minh và VM nổi lên
chiếm chính quyền, nhưng Hồ Chí Minh và VM không
bảo vệ được miền Nam, khiến miền
Nam lọt vào tay Pháp trở lại.
Vì vậy, tuy hiệp định Élysée đã giải kết hòa
ước năm 1884, nhưng vấn đề Nam Kỳ
vẫn chưa được giải quyết. Cựu hoàng Bảo Đại cương
quyết tiếp tục thương thuyết để
tái thống nhất đất nước, nghĩa là sáp
nhập Nam Kỳ trở lại Việt Nam. Lúc đó, vì nhu cầu cấp bách của tình hình,
chính phủ Queuille phải tiến hành thủ tục
hiến định, để giao hoàn Nam Việt cho
Việt Nam.
Trong
Hiến pháp 1946 của nền Đệ tứ Cộng hoà
Pháp, điều thứ 75 quy định rằng “một phần lãnh thổ
của Cộng Hòa Pháp hoặc Liên Hiệp Pháp có thể
biến đổi do luật của quốc hội sau khi
đã tham khảo ý kiến với Hội nghị
địa phương và Hội đồng Liên Hiệp
Pháp.” (Chính
Đạo, sđd. tr. 123.)
Do
đó, để thực hiện hiệp định Élysée, trao trả Nam Việt
(tức Nam Kỳ, Nam Bộ) lại cho Việt Nam, quốc
hội Pháp biểu quyết ngày 11-3-1949, chấp thuận
thành lập “Hội đồng lãnh thổ Nam Việt” và
được chính phủ Pháp ban hành thành luật ngày
14-3-1949, để Hội đồng nầy quyết
định về tương lai Nam Việt.
Hội
đồng nầy được bầu ra ngày 10-4-1949
tại Nam Việt gồm 54 thành viên, trong đó có 14
người Pháp và 40 người Việt. Trong cuộc bỏ phiếu
lần thứ nhất, kết quả bỏ phiếu
về việc sáp nhập Nam Việt vào Việt Nam là 25-25,
nghĩa là kết quả cân bằng giữa hai khuynh
hướng. Hội
đồng nầy phải bỏ phiếu lần thứ
hai ngày 23-4-1949. Kết quả là 45 phiếu thuận và 5 phiếu
chống. (Bảo Đại, sđd. tr. 345.).
Nói
cách khác, trong cuộc bỏ phiếu ngày 23-4-1949, Hội
Đồng Lãnh Thổ Nam Việt đồng ý sáp nhập
Nam Việt về với Việt Nam.
2.- VIỆT NAM
ĐỘC LẬP
Đạt
được ước vọng thống nhất lãnh
thổ, đem Nam Việt trở về với Việt Nam, cựu hoàng Bảo Đại lên
đường về nước ngày 24-4-1948. Các
đại biểu Nam Việt đã bỏ phiếu tái sáp
nhập Nam Việt vào Việt Nam, nhưng trong khi chờ
đợi quyết định của quốc hội Pháp,
Nam Việt chưa thực sự là đất Việt Nam,
nên khi về đến Việt Nam ngày 28-4-1949, cựu hoàng
Bảo Đại không ở lại Sài Gòn, mà lên thẳng
Đà Lạt. Trong sách Con
rồng Việt Nam, cựu hoàng Bảo Đại viết
rằng: “Tôi quyết
định, vì lý do nhã nhặn, chưa nên vội vã
đến Sài Gòn.” (Bảo Đại, sđd. tr. 351.)
Thật ra lúc đó, Pháp chưa chịu
trả dinh toàn quyền Đông Dương (dinh Norodom
tức dinh Độc Lập) ở Sài Gòn cho Việt Nam, và viên toàn quyền Pháp
vẫn làm việc ở đó. Pháp chỉ giao lại
cho phía Việt Nam dinh thống đốc Nam Kỳ (tức
dinh Gia Long vì nằm trên đường Gia Long trước
năm 1975) ngày 23-5-1947, thời chính phủ Lê Văn Hoạch
.
Ai cũng biết dinh toàn quyền
Đông Dương giữ một vai trò chính trị quan
trọng hơn dinh thống đốc Nam Kỳ. Do đó,
vì thể diện quốc gia, cựu hoàng Bảo
Đại, tuy do Pháp đưa về, nay là Quốc
trưởng Việt Nam độc lập, không thể
đặt văn phòng ở dinh Gia Long. Cựu hoàng lên Đà Lạt,
cư ngụ và làm việc ở biệt thự của gia
đình bà Nam Phương, mà sau nầy dân chúng thường
gọi là biệt điện Bảo Đại, dù biệt
thự nầy nhỏ hơn và thiếu tiện nghi hơn.
Ngày
3-6-1949, quốc hội Pháp, chiếu theo kết quả
cuộc bỏ phiếu của Hội đồng Nam
Việt ngày 23-4-1949, chấp thuận việc sáp nhập Nam
Việt vào Việt Nam. Ngày 4-6-1949, tổng thống Pháp
Vincent Auriol ban hành luật công nhận Việt Nam thống nhất,
trong khi bộ Ngoại giao Hoa Kỳ gởi điện chúc
mừng Pháp về hiệp định Élysée. Đây là lần
đầu tiên Pháp thừa nhận Việt Nam chính thức tái thống
nhất, sau khi Pháp bảo hộ Việt Nam từ năm 1884.
Cuộc trao đổi văn kiện
về hiệp định Élysée
diễn ra tại tòa đô sảnh Sài Gòn ngày 14-6-1949 giữa cựu hoàng
Bảo Đại và cao uỷ Léon Pignon. Trong
lời hiệu triệu gởi quốc dân Việt Nam
đọc trong buổi lễ nầy, cựu hoàng tuyên
bố từ nay Việt Nam hoàn toàn độc lập, và
cựu hoàng tạm cầm quyền cho đến khi tổ
chức tổng tuyển cử. (Đoàn Thêm,
sđd. tr. 55.) Cờ Việt Nam (cờ vàng ba sọc
đỏ) được kéo lên trước Tòa đô
sảnh. Riêng hiệp
định Élysée, cho
đến 2-2-1950 tức gần một
năm sau ngày ký, quốc hội Pháp mới biểu
quyết phê chuẩn.
Tuy nói rằng Pháp trao trả độc
lập và thống nhất cho Việt Nam, nhưng thật sự việc
nầy diễn ra rất chậm chạp. Các cơ
quan cai trị hành chánh, tài chánh, quân
sự vẫn còn thuộc quyền của Pháp trong thời
gian chuyển tiếp. Thực quyền của cựu hoàng Bảo
Đại lúc nầy có thể rộng hơn khi ông làm vua
trước năm 1945, nhưng mới chỉ trên giấy
tờ, và vẫn giới hạn trong chính sách của
người Pháp. Bảo Đại không có một
đảng phái mạnh của riêng ông, hoặc một
đội ngũ nhân sự để
làm tham mưu cho ông.
Những người cộng tác chung quanh cựu hoàng
đều do Pháp tuyển chọn.
Vì vậy, tất cả những hành động
của cựu hoàng hoàn toàn bị Pháp theo
dõi, kiểm soát.
Chế độ QGVN là một lối
thoát cho những nhà hoạt động chính trị dân
tộc và cho những người dân không chấp nhận
chủ nghĩa cộng sản. Từ
đây, dân chúng bỏ vùng VM, hồi cư về thành
phố để sinh sống dưới chế độ
Quốc Gia càng ngày càng đông.
3.- CHÍNH PHỦ BẢO ĐẠI VÀ
CƠ CẤU HÀNH CHÁNH
Sau
khi Hội Đồng Lãnh Thổ Nam Việt bỏ
phiếu ngày 23-4-1949, đồng ý sáp nhập Nam Việt vào
Việt Nam, cựu hoàng Bảo Đại lên
đường về tới Việt Nam ngày 28-4-1949. Ông thăm dò dư luận
để tìm kiếm người thành lập nội
các. Bảo Đại mời
Ngô Đình Diệm làm thủ tướng, nhưng ông
Diệm từ chối, dù bộ trưởng Hải
ngoại Pháp lúc đó là Coste-Floret đứng ra thuyết
phục ông Diệm. Ông
Diệm nêu lý do sợ giáo dân đạo Ky-Tô bị VM
trả thù.(Chính Đạo, sđd. tr. 168.)
Đợi lâu quá chưa tìm
được vị thủ tướng đáp ứng các
yêu cầu từ nhiều phía (Pháp, đảng phái, giáo
phái...), cựu hoàng Bảo Đại tự đứng ra
lập chính phủ. Ngày 20-6-1949, chính phủ Lâm thời
của Nguyễn Văn Xuân tuyên bố giải tán. Ngày 1-7-1949, Bảo Đại công bố nội
các mới, với thành phần như sau:
Thủ tướng :
Bảo Đại,
quốc trưởng
Phó thủ tướng kiêm
Quốc phòng : Trung tướng Nguyễn
Văn Xuân
Tổng trưởng
Ngoại giao :
Nguyễn Phan Long
- Tư
pháp : Nguyễn
Khắc Vệ
- Quốc Gia Kinh tế và Kế
hoạch : Trần
Văn Văn
Bộ trưởng Phủ
Thủ tướng kiêm Nội vụ : Vũ Ngọc Trản
- Tài
chánh : Dương
Tấn Tài
-
Ngoại giao :
Lê Thăng
- Quốc
phòng :
Trần Quang Vinh
- Thương mại và Kỹ
nghệ : Hoàng
Cung
-
Canh nông, Xã hội, Lao Động : Phan Khắc Sửu
- Công tác, Giao thông và Kiến
thiết : Trần
Văn Của
-
Quốc gia Giáo dục :
Phan Huy Quát
- Thanh niên :
Nguyễn Tôn Hoàn
- Y tế :
Nguyễn Hữu
Phiếm
- Thông
Tin :
Trần Văn Tuyên
Tổng
thư ký Chính phủ : Đặng
Trinh Kỳ (Đoàn
Thêm, sđd. tr. 56.)
Quốc Trưởng Bảo Đại
Cùng
ngày 1-7-1949, cựu
hoàng Bảo Đại còn ban bố hai đạo
dụ:
1) Đạo dụ số 1 tổ
chức và việc điều hành các cơ quan công quyền
Việt Nam khi chưa có hiến pháp. Theo đạo
dụ nầy, quốc trưởng giữ quyền
lập pháp, ban bố các đạo dụ, và giữ
quyền hành pháp của một quốc trưởng,
trụ sở chính thức của phủ quốc
trưởng dặt ở Sài Gòn. Chính phủ do quốc
trưởng bổ nhiệm và chịu trách nhiệm
trước quốc trưởng.
Một Hội đồng Quốc gia Tư vấn
gồm 45 nhân vật do quốc trưởng bổ
nhiệm.
2) Đạo dụ số 2 chia
Việt Nam thành ba phần: Bắc Việt, Trung
Việt và Nam Việt. Mỗi
phần có ngân sách riêng, có tư cách pháp nhân, do một
thủ hiến cai trị, thủ
hiến do quốc trưởng bổ nhiệm. Một quốc hội lập hiến tạm
thời sẽ được triệu tập.
Đặc
biệt, theo một chỉ thị
của Văn phòng Bảo Đại, từ nay cựu hoàng
Bảo Đại được gọi là Đức
quốc trưởng.
Điều nầy cho thấy cựu hoàng đã
nhận ra rằng trong tình hình mới, với khuynh
hướng tiến đến dân chủ, danh xưng “hoàng
đế” không còn thích hợp, nhất là với hoàn
cảnh thực tế của ông lúc bấy giờ.
Ngày
3-7-1949, các vị thủ hiến được quốc
trưởng Bảo Đại bổ nhiệm như
sau: Nguyễn Hữu Trí
(Bắc Việt), Phan Văn Giáo (Trung Việt), và Trần
Văn Hữu (Nam Việt).
Sau khi cơ cấu hành chánh cao cấp
tạm ổn, quốc trưởng Bảo Đại
đi thăm Huế (12-7-1949) và Hà Nội (16-7-1949). Tại Hà
Nội, Hội đồng nội các họp phiên
đầu tiên ngày 19-7-1949 tại biệt điện quốc trưởng,
tức dinh toàn quyền cũ, do người Pháp bàn giao
lại ngày 16-6-1949.
Những
cơ quan chuyên môn của tân chính quyền bắt
đầu đặt định các cơ sở căn
bản cho công cuộc chuyển tiếp chính quyền
từ tay người Pháp qua người Việt, như
thiết lập Viện giám sát, ấn định cụ
thể chức năng của các tổng bộ
trưởng, cơ quan các ngành từ hành chánh, tư pháp,
tài chánh, thuế khóa, tiếp tục giải quyết
nạn đói ở ngoài Bắc, tổ chức nền giáo
dục từ sơ học lên đến trung học.
Ngày 28-8-1949, chính phủ Quốc Gia
Việt Nam ra thông cáo xác định
lập trường chính trị của mình là sẽ
chống cộng mạnh mẽ với sự giúp
đỡ của chánh phủ Pháp.
Ngày
18-10-1949, quốc trưởng Bảo
Đại ban hành sắc lệnh tổ chức ngành tư
pháp và các tòa án Việt Nam, đồng
thời ra sắc lệnh thành lập tối cao pháp
viện. Từ
đây, việc xét xử do các quan tòa Việt Nam đảm trách, dựa
vào luật pháp Việt Nam.
Riêng
trong ngành giáo dục là ngành căn bản đào tạo nhân
tài cho đất nước, bậc Cao đẳng
tiểu học (Enseignement primaire supérieur) bị bãi bỏ,
và tổ chức giáo dục được chia thành ba
bậc: tiểu học, trung học và đại
học. Mỗi bậc
đều có ban phổ thông và ban chuyên nghiệp. Đại học và
trung học thuộc bộ Giáo dục, còn tiểu học
thuộc các phủ thủ hiến về hành chánh và
thuộc bộ Giáo dục về chuyên môn. (SL 96/ GD ngày 29-12-1949).
Ngày 30-12-1949, quốc trưởng
Bảo Đại và cao uỷ Léon Pignon ký các hiệp
định tiến hành thực thi hiệp định Élysée (8-3-1949) tại tòa đô sảnh
Sài Gòn. Theo các hiệp
định nầy, các công sở như tư pháp, cảnh
sát, học chính được giao về chính phủ
Việt Nam. Ngày hôm đó, cờ Việt Nam (nền vảng và ba sọc đỏ)
do chính phủ Nguyễn Văn Xuân đưa ra ngày 2-6-1948, được chính thức kéo lên
trước tòa đô sảnh Sài Gòn.
KẾT LUẬN
Từ
khi vua Bảo Đại tuyên bố thoái vị và trao
quyền lại cho chính phủ Việt Nam Dân Chủ
Cộng Hoà (VNDCCH) ngày 25-8-1945, thì chính phủ VNDCCH là chính
phủ thừa kế hợp pháp duy nhất trên đất
nước Việt Nam. Tuy
nhiên, chính phủ VNDCCH theo chủ nghĩa cộng sản,
tiêu diệt những thành phần đối kháng,
đẩy những người bất đồng chính
kiến với VM vào thế bắt buộc phải tạm
thời liên kết với Pháp để chống VM. Từ đó
đưa đến giải pháp Bảo Đại năm
1949.
Cựu hoàng Bảo Đại là
người được đào tạo ở Paris (Pháp). Trong
hồi ký của mình, ông thú nhận ông là một “tên Tây con”
(Bảo Đại, sđd.
tr. 37), nhưng Bảo Đại không áp đặt văn
hóa Pháp lên văn hóa dân tộc.
Khi được các đảng phái theo chủ
nghĩa dân tộc ủng hộ, cựu hoàng Bảo
Đại đã thương thuyết với Pháp và ký
kết thỏa ước Hạ Long ngày 5-6-1948, rồi
hiệp định Élysée ngày 8-3-1949, đem độc
lập cho Việt Nam. Cựu
hoàng Bảo Đại đã dựa vào hoàn cảnh chính
trị, để đòi hỏi Pháp trả lại Nam
Việt cho Việt Nam, tái thống nhất đất
nước trên căn bản pháp lý vững vàng và ôn hòa.
Trước
kia Pháp xâm lăng Việt Nam, và buộc Việt Nam ký hiệp ước pháp lý: buộc
Việt Nam nhượng đứt sáu tỉnh Nam
Kỳ bằng hòa ước 1874, và buộc Việt Nam nhận sự bảo hộ của
Pháp bằng hòa ước 1884.
Năm 1949, cựu hoàng Bảo
Đại cũng đã tiến hành hai giai đoạn pháp
lý để đem độc lập lại cho Việt Nam và tái thống nhất
đất nước. Trước hế,
hiệp định Élysée (9-3-1949) giải kết hòa
ước 1884. Tiếp đó,
cuộc bỏ phiếu ngày 23-4-1949 của Hội
Đồng Lãnh Thổ Nam Việt, đồng ý sáp nhập
Nam Việt vào với Việt Nam. Kết quả nầy được quốc
hội Pháp chuẩn thuận ngày 3-6-1949, và tổng thống Pháp
ban hành thành luật ngày 4-6-1949. Nam Kỳ trở lại lãnh thổ Việt Nam.
Sự
thành lập Quốc Gia Việt Nam sau hiệp định Élysée (8-3-1949) do cựu hoàng
Bảo Đại làm quốc trưởng là một
biến cố hết sức trọng đại, cho
thấy dân tộc Việt Nam trong khi chống ngoại xâm
vẫn không chấp nhận chế độ độc
tài cộng sản.
Từ
đây, trên đất nước Việt Nam, hiện diện hai chính phủ song hành
là chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (VNDCCH) do
Hồ Chí Minh thành lập từ 1945 và chính phủ Quốc
Gia Việt Nam (QGVN) do quốc trưởng Bảo
Đại đứng đầu.
Hai chính phủ không phân biệt giới
tuyến lãnh thổ rõ rệt. Chính
phủ nào cũng tự nhận là chủ nhân chính thống
toàn bộ lãnh thổ đất nước. Trong thực tế, chính phủ
Hồ Chí Minh cai trị vùng nông thôn và
rừng núi. Chính phủ
Quốc gia của quốc trưởng Bảo Đại,
chống lại VM cộng sản, cai
trị các thành phố và vùng phụ cận.
Sự hiện diện của chế
độ QGVN làm chậm lại một thời gian sự
phát triển của chủ nghĩa cộng sản trên
đất nước Việt Nam, đồng thời
tạo môi trường phát triển tinh thần dân chủ
nơi quần chúng Việt Nam. Sau chế
độ quân chủ và chế độ bảo hộ
của thực dân Pháp, chế độ QGVN giữ vai trò
chuyển tiếp, qua con đường dân chủ tự
do, chứ Việt Nam không rơi thẳng ngay vào chế
độ cộng sản.
Trong
hoàn cảnh chiến tranh, chế độ QGVN tuy không hoàn
hảo, còn nhiều thiếu sót và hạn chế, nhưng
bắt đầu ứng dụng những sinh hoạt dân
chủ tự do căn bản theo
kiểu Tây phương. Ngoài ra, chế độ nầy đã giúp bảo
lưu nền văn hóa dân tộc cổ truyền, bảo
lưu những giá trị nhân bản của dân tộc.
Nhằm tự bảo vệ, các chính
phủ QGVN phải liên kết với Pháp để
chống cộng sản. Từ một nước thực
dân, xâm lăng, đem quân tái chiếm thuộc địa
năm 1945, sau hiệp định Élysée và sự thành lập chế độ
Quốc Gia, Pháp trở thành một nước đồng
minh của QGVN trong công cuộc tranh đấu chống
cộng sản.
Từ
đây (1949), cuộc kháng chiến chống Pháp giành
độc lập theo khẩu hiệu của VM năm 1946
không còn ý nghĩa và giá trị, mà trở nên cuộc tranh
chấp giữa hai chế độ đều của
người Việt Nam theo hai chủ trương chính
trị khác nhau. Vì
vậy chiến tranh Việt Nam bắt đầu
chuyển hướng và mang một màu sắc mới. Đó là khởi đầu chiến tranh ý thức
hệ Quốc-Cộng ở Việt Nam.
Trong khi giúp chính phủ QGVN chống
cộng, Pháp không thực tâm và quá chậm chạp trong
việc trao trả độc lập hoàn toàn cho Việt Nam, và vẫn còn muốn
giữ quyền kiểm soát hoạt động của
chính phủ QGVN. Vì vậy, VM cộng sản tuyên
truyền xuyên tạc rằng chính phủ QGVN là tay sai
của thực dân Pháp, trong khi chính phủ QGVN phải
vừa chống VM cộng sản, vừa tranh đấu
với người bạn đồng minh mới là Pháp,
vốn là kẻ xâm lăng trước đây, để
giữ vững nền tự chủ của đất
nước.
Nói một cách khác, chính phủ QGVN luôn
luôn bị kềm kẹp giữa hai thế lực cộng
sản và tư bản. Đây chính là khó khăn của những
chính phủ QGVN và những nhà chính trị theo
chủ nghĩa dân tộc chân chính.
Riêng
cựu hoàng Bảo Đại, trong thời gian làm quốc
trưởng, ông thiếu hẳn một bộ tham mưu
giúp sức, vì Pháp kiếm cách đặt người bao
quanh Bảo Đại để theo dõi
và giám sát Bảo Đại. Hoạt động chính trị
đơn chiếc, thiếu hợp tác và hỗ trợ,
không đảng phái như Bảo Đại, rất khó
thành công, nhất là trong hoàn cảnh hết sức khó
khăn và phức tạp của Việt Nam giữa các thế lực quốc
tế.
Cựu hoàng Bảo Đại nhiều
lần bị bôi xấu, từ VM cộng sản đến
Pháp, Hoa Kỳ và cả chế độ Ngô Đình Diệm
sau năm 1954. Tuy nhiên, sự
nghiệp chính trị của ông ảnh hưởng tốt
hay xấu cho tương lai đất nước, mới
là sự phán xét công bình của lịch sử. Cho đến nay,
mọi người thấy rõ, những hoạt
động của cựu hoàng Bảo Đại nếu
không làm lợi cho Việt Nam, thì cũng hoàn toàn không làm
hại Việt Nam. Bảo Đại chưa ký kết một văn
kiện nào để nhượng bộ Pháp ở Việt
Nam.
Cuối cùng, Quốc Gia Việt Nam chính là tiền thân của
Việt Nam Cộng Hòa. Do
sự thành lập của Quốc Gia Việt Nam, mới có
Việt Nam Cộng Hòa và 21 năm tự do, dân chủ
từ năm 1954 đến 1975 ở miền Nam vĩ
tuyến 17.
TRẦN GIA PHỤNG
(Toronto, 01-01-2009)