CHÀO MỪNG 2009
KỶ NIỆM
SÁU MƯƠI NĂM QUỐC GIA VIỆT NAM
Bài 2: THỎA ƯỚC HẠ LONG (05-06-1948)
Trần Gia Phụng
1.-
BIẾN CHUYỂN CHÍNH TRỊ
Trong khi chiến tranh tiếp diễn, Pháp nhận
ra rằng phía Việt Minh (VM) tiêu diệt những thành phần
theo chủ nghĩa dân tộc, gây chia rẽ
trầm trọng giữa những khuynh hướng chính trị
Việt Nam. Vì vậy Pháp tìm một
giải pháp chính trị mới để giải quyết
chiến tranh Đông Dương.
Tại Nam Kỳ:
Bác sĩ Lê Văn Hoạch từ chức thủ
tướng chính phủ “Nam Kỳ tự trị” ngày
29-9-1947. Hội
đồng Nam Kỳ uỷ cho thiếu tướng Nguyễn
Văn Xuân, vừa từ Pháp về, lập chính phủ mới. Nguyễn Văn Xuân
đã từng được Hồ Chí Minh bổ nhiệm
làm bộ trưởng không bộ nào (quốc vụ khanh)
trong chính phủ ngày 2-9-1945, nhưng ông không nhận chức. Nguyễn Văn Xuân không lập
chính phủ “Nam Kỳ tự trị”, mà công bố thành lập
Chính phủ Lâm thời Nam Kỳ ngày 8-10-1947 như sau:
Thủ tướng
|
Nguyễn
Văn Xuân
|
Phó thủ
tướng
|
Trần Văn
Hữu
|
Bộ trưởng
Tư pháp
|
Nguyễn Khắc
Vệ
|
Công chánh
|
Nguyễn
Văn Tỵ
|
Canh nông
|
Trần Thiện
Vàng
|
Thông tin
|
Nguyễn Phú
Khai
|
Thứ trưởng
Thông tin
|
Trần Văn
Ân (Chính Đạo, tr. 66)
|
|
|
Tại Pháp:
Chính phủ Paul Ramadier của đảng Xã Hội bị
lật đổ ngày 19-11-1947.
Ngày 24-11, quốc hội Pháp bầu Robert Schuman, thuộc
đảng M.R.P. (Mouvement Républicain Populaire= Phong trào Cộng
hòa Nhân dân) trung hữu và thân De Gaulle, lên lập chính phủ. Trong nội các nầy,
viên bộ trưởng Hải ngoại (tức bộ Thuộc
địa cũ) cũng là một nhân vật của M.R.P.,
ông Paul Coste-Floret. Với chính phủ mới, mọi người
trông đợi một chính sách mới của Pháp về Việt
Nam.
Cựu hoàng Bảo
Đại gặp Bollaert: Vào cuối
năm 1947, theo lời mời của Cao Uỷ Đông
Dương là Émile Bollaert, cựu hoàng Bảo Đại
cùng hoàng thân Vĩnh Cẩn (ông Hoàng Tùng Đệ) từ Hồng
Kông đến gặp Bollaert ngày 6-12-1947 trên chiến hạm
Duguay Trouin, thả neo trong vịnh Bắc Việt. Hai bên gặp nhau tại đây
để tránh tai mắt của báo
chí.
Trong lần gặp mặt sơ khởi nầy,
sau hai ngày thảo luận, cựu hoàng Bảo Đại chỉ
chấp nhận ký vào bản thông cáo chung,
theo đó nước Pháp hứa sẽ công nhận Việt
Nam
độc lập sau những cuộc thương thuyết
chánh thức giữa hai bên. Sau
đây là nội dung thông cáo chung ngày
6-12-1947, được dịch sang tiếng Việt:
“Một bên là Hoàng đế Bảo Đại, đại
diện nước Việt Nam.
Một bên là Cao ủy Bollaert, đại diện Chính
phủ Pháp tại Đông Dương.
Đã thỏa thuận
như sau:
Nước Pháp sẽ nhận cho Việt Nam độc
lập sau những cuộc thương thuyết chánh thức
giữa hai bên.
Việt Nam
hứa sẽ ưu tiên dùng những chuyên viên Pháp trong công cuộc
kiến thiết.
Một hiệp ước chính thức sẽ
được thương thuyết và ký kết giữa
các đại biểu
hai nước.”
Cao ủy Pháp tại Đông Dương Hoàng đế Bảo Đại.
Ký tên: Bollaert, đóng dấu. Ký tên: Vĩnh Thụy
(1)
Ngoài thông cáo chung, cựu
hoàng không chịu ký vào tài liệu thứ hai ấn định
lịch trình và những vấn đề sẽ bàn đến,
vì ông tự cho rằng lúc đó ông chẳng đại diện
cho ai cả và cũng chưa ai uỷ nhiệm ông thực
hiện việc nầy. Tuy
nhiên do yêu cầu của Bollaert rằng đây chỉ la bản
ghi nhớ nội dung, Bảo Đại chỉ ký tắt
mà thôi. (Bảo Đại, sđd. tt. 295-297.)
Theo một tài liệu khác, những điểm
căn bản trong cuộc thảo luận nầy như
sau: Pháp sẽ công bố rõ ràng
rằng sẽ không tiếp tục thương thuyết với
Hồ Chí Minh. Bảo Đại
đồng ý đứng ra thành lập một chính phủ
độc lập, gồm cả ba miền Bắc, Trung,
Nam trong Liên Hiệp Pháp; Pháp sẽ đặc trách về ngoại
giao nhưng sẽ sử dụng viên chức Việt
Nam. Việt Nam sẽ có
quân đội riêng, nhưng quân đội nầy sẽ
tham gia bảo vệ toàn khối Liên Hiệp Pháp. Pháp Việt sẽ thiết lập
nền thuế quan chung, truyền thông,
và vận tải. (Chính Đạo, sđd. tr. 70.)
Khi Bollaert về Paris trình bày giải pháp Bảo
Đại, chính phủ Pháp ra tuyên bố ngày 23-12-1947 rằng
cao uỷ Bollaert được toàn quyền thương
thuyết để tái lập hòa bình ở Đông
Dương, và dứt khoát không nói chuyện với Hồ
Chí Minh. (Chính Đạo, sđd.
tt. 71-72)
Về phía Bảo Đại, cựu hoàng mời
ông Nguyễn Văn Xuân, thủ tướng chính phủ Lâm
thời Nam Kỳ, ông Trần Văn Lý, chủ tịch Hội
Đồng An Dân Huế, và ông Ngô Đình Diệm cùng nhau hội
họp trong ba ngày tại Hồng Kông bắt đầu từ
19-12-1947. Sau khi lấy ý kiến
chung, cựu hoàng Bảo Đại lên
đường ngày 24-12-1947 qua Genève thương thuyết.
(Bảo Đại,
sđd. tt. 297-299.)
2.-
CỰU HOÀNG BẢO ĐẠI VẬN ĐỘNG
Từ Hồng Kông, ngày 24-12-1947, cựu hoàng Bảo
Đại đến Genève để gặp cao ủy
Bollaert từ ngày 7-1 đến 12-1-1948. Cựu hoàng đòi hỏi
phải chính danh, xác định rõ vị trí của ông thì mới
có thể thương thuyết.
Bollaert cho rằng Bảo Đại không còn
là hoàng đế Việt Nam, nhưng Bollaert sẽ mở một
hội nghị gồm đại biểu ba kỳ, và hội
nghị nầy sẽ trao quyền cho cựu hoàng sứ mạng
điều đình với Pháp.
Năm lần họp liên tiếp không đem lại kết
quả nào ngoài lời kêu gọi của Bollaert yêu cầu gặp
lại cựu hoàng tại vịnh Hạ Long vào giữa
tháng 2 sắp đến, nhưng cựu hoàng Bảo Đại
không chấp nhận. (Bảo Đại, tt.
299-303.)
Sau cuộc họp tại
Genève, cựu hoàng Bảo Đại đến Cannes, miền nam
nước Pháp, thăm gia đình.
Thủ tướng Pháp, ông Schuman mời
cưụ hoàng đến Paris
ngày 5-2-1948. Trong buổi
tiệc do Schuman khoản đãi, trả lời những thắc
mắc của thủ tướng Pháp về thái độ
của mình, cựu hoàng Bảo Đại tuyên bố rằng
khi ông tới Hạ Long gặp Bollaert lần vừa qua, là
để nghe trình bày về chủ trương của
nước Pháp, chứ ông không có tư cách đại diện
cho ai để ký kết điều gì. Nhân buổi tiệc
đó, cựu hoàng đòi hỏi Pháp phải thừa nhận
nền độc lập và sự thống nhất của
Việt Nam
mới có thể vãn hồi hòa bình. (Chính
Đạo, sđd. tr. 77. Bảo Đại, sđd. tt.
304-308.)
Về lại Hồng Kông
vào giữa tháng 3-1948, cựu hoàng Bảo Đại tiếp
tục gặp gỡ thêm nhiều chính khách trong nước.
Vào ngày 26-3, cựu hoàng thông báo cho các
đoàn thể chính trị, đồng ý thành lập một
chính phủ Trung ương Lâm thời để thảo luận
với Pháp một tạm ước và thống nhất
đất nước.
Ngày 30-4, cựu hoàng gặp Nguyễn Văn
Xuân và gởi thông điệp cho tất cả các tổ chức
chính trị ngày 15-5 chấp thuận giao cho ông Xuân lập
chính phủ lâm thời. Nguyễn Văn Xuân là thiếu tướng trong
quân đội Pháp, và từng là bộ trưởng không bộ
nào (quốc vụ khanh) của chính phủ Hồ Chí Minh
ngày 2-9-1945.
3. CHÍNH PHỦ TRUNG ƯƠNG LÂM
THỜI QUỐC GIA VIỆT NAM
Từ 20-5-1948, đại diện các giới
cầm quyền Việt Nam tại ba miền trong vùng Pháp kiểm
soát, đại diện các đảng phái, các đoàn thể
chính trị, tham dự hội nghị từ ngày 20-5-1948 tại
Sài Gòn, đã bầu thiếu tướng Nguyễn Văn Xuân
làm thủ tướng chính phủ trung ương lâm thời. Ngày 1-6-1948, với sự đồng
ý của cựu hoàng Bảo Đại, Nguyễn Văn
Xuân chính thức công bố danh sách Hội đồng chính
phủ Trung ương Lâm thời, thành phần như sau:
Chủ tịch
Hội đồng, kiêm tổng trưởng Quốc Phòng
|
Nguyễn
Văn Xuân
|
Quốc vụ
khanh, Phó chủ tịch, tổng trấn Nam Việt
|
Trần Văn
Hữu
|
Quốc vụ
khanh, tổng trấn Trung Việt
|
Phan Văn Giáo
|
Quốc vụ
khanh, tổng trần Bắc Việt
|
Nghiêm Xuân Thiện
|
Quốc vụ
khanh, tùng Bộ Quốc phòng
|
Trần Quang
Vinh
|
Tổng trưởng
Lễ nghi, Quốc gia Giáo dục
|
Nguyễn Khoa
Toàn
|
Tổng trưởng
Nội vụ
|
Nguyễn Hữu
Trí (không nhận)
|
Tổng trưởng
Tư pháp
|
Nguyễn Khắc
Vệ
|
Tổng trưởng
Tài chánh Kinh tế Quốc gia
|
Nguyễn Trung
Vinh
|
Tổng trưởng
Công chánh và Kế hoạch
|
Nguyễn
Văn Tỵ
|
Tổng trưởng
Thông tin, Báo chí và Tuyên truyền
|
Phan Huy Đán
|
Tổng trưởng
Canh nông
|
Trần Thiện
Vàng
|
Thứ trưởng
tùng Dinh chủ tịch
|
Đinh Xuân Quảng
|
Thứ trưởng
tùng Bộ Quốc gia Giáo dục
|
Hà Xuân Tế
|
Thứ trưởng
Nội vụ (bổ nhiệm 9-6)
|
Đỗ Quang
Giai
|
Thứ trưởng
Lao Động (bổ nhiệm 9-6)
|
Ngô Quốc Còn
|
Thứ trưởng
Nội an (bổ nhiệm 28-6)
|
Lê Công Bộ (2)
|
Vì Nguyễn Hữu Trí không
nhận bộ Nội vụ nên Nguyễn Văn Xuân kiêm nhiệm.
Sau đó Nguyễn Hữu Trí được
cử làm Đại diện Việt Nam
tại Paris
ngày 25-9-1948. Các cơ chế
hạ tầng của chính phủ Nguyễn Văn Xuân
được hoàn thiện dần dần tiếp theo về sau.
Hôm sau, 2-6-1948, thủ tướng Nguyễn
Văn Xuân ban hành “Pháp quy lâm thời” (Statut provisoire) của
nước Việt Nam, theo đó quốc kỳ nền
vàng, ba sọc đỏ ở giữa,(3) quốc ca là bài “Tiếng gọi sinh viên”, sau
đổi thành “Tiếng gọi thanh niên” của Lưu Hữu
Phước, nước Việt Nam được chia
thành ba phần Bắc Việt, Trung Việt và Nam Việt; mỗi
phần do một tổng trấn đứng đầu.
4.- THỎA
ƯỚC HẠ LONG (5-6-1948)
Theo lời đề nghị của cao uỷ
Émile Bollaert, thủ tướng Nguyễn Văn Xuân cùng
đại diện ba miền là Nghiêm Xuân Thiện, Đặng
Hữu Chí (Bắc Việt), Phan Văn Giáo, Nguyễn Khoa
Toàn, Đinh Xuân Quảng, (Trung Việt), và Trần Văn Hữu,
Lê Văn Hoạch (Nam Việt) đến vịnh Hạ
Long hội họp.
Dưới sự chứng kiến của cựu
hoàng Bảo Đại, hai bên Việt-Pháp ký thỏa ước
Hạ Long, dưới hình thức một bản “Tuyên bố
chung” ngày 5-6-1948 trên chiến hạm Duguay-Trouin, thả neo trong vịnh
Hạ Long, nguyên văn bản dịch như dưới
đây:
Trước mặt Hoàng đế
Bảo Đại,
Ông Émile Bollaert, Cố vấn
Chính phủ Cộng hòa Pháp quốc, Cao uỷ Pháp ở
Đông Dương, nhân danh Chính phủ Cộng hòa Pháp quốc,
một bên,
và:
Ông Nguyễn Văn Xuân, Thủ
tướng Chính phủ Trung ương Lâm thời Việt
Nam, có sự dự kiến của quý ông Nghiêm Xuân Thiện
và Đặng Hữu Chí, Phan Văn Giáo, Nguyễn Khoa Toàn và
Đinh Xuân Quảng, Trần Văn Hữu và Lê Văn Hoạch,
đại diện lần lượt cho miền Bắc Việt
Nam, miền Trung Việt Nam và miền Nam Việt Nam, một
bên,
đã lập
bản tuyên bố chung như sau:
1.
Nước Pháp long trọng công nhận nền độc lập
của Việt Nam, được tự do thực hiện
nền thống nhất của mình. Về phía Việt Nam, nước
Việt Nam
tuyên bố sự sáp nhập vào Liên Hiệp Pháp dưới
danh nghĩa một quốc gia liên kết với nước
Pháp. Nền độc lập
của Việt Nam không có một giới hạn nào khác,
ngoài giới hạn, mà Liên Hiệp Pháp dành cho mình.
2.
Nước Việt Nam cam kết tôn trọng mọi
quyền hạn và quyền lợi
của các tư nhân Pháp, cam kết bảo đảm các
căn bản dân chủ, và dành ưu tiên sử dụng các
nhà chuyên môn, cố vấn Pháp trong mọi nhu cầu tổ
chức nội bộ và khuếch trương kinh tế của
mình.
3.
Sau khi thành lập Chính phủ Lâm thời, các đại
diện của Việt Nam sẽ thỏa thuận với
các đại diện của Cộng Hòa Pháp quốc, những
sự thỏa thuận hợp lý về các vấn đề ngoại giao, kinh tế, tài chánh và chuyên môn.
Làm thành hai bản chính ở
vịnh Hạ Long, ngày năm tháng sáu năm một nghìn chín
trăm bốn mươi tám. (Bảo Đại,
tt. 317-318.)
Sau thỏa ước Hạ Long, cựu hoàng Bảo Đại qua Bangkok (Vọng Các,
thủ đô Thái Lan) rồi đi
Pháp. Đương
nhiên Hồ Chí Minh phản ứng ngay. Ngày 7-6-1948, tại Thái Nguyên, Hồ
Chí Minh tuyên bố phản đối “bọn bù nhìn” ký kết
hiệp ước với bất cứ nước ngoài
nào.(4)
Ngược lại, việc ký kết thỏa
ước Hạ Long đem
lại nhiều thuận lợi cho chính phủ Trung
ương Lâm thời do Nguyễn Văn Xuân làm thủ
tướng và cả Pháp nữa, trong đó quan trọng nhất
là vụ Lê Văn Viễn về quy thuận.
Lê Văn Viễn, thường được
gọi là Bảy Viễn, một
nhân vật lúc trẻ xuất thân từ giới “hảo hán
giang hồ” ở Nam Kỳ, đã lên đường kháng
chiến chống Pháp năm 1946, chỉ huy chi đội 7
là chi đội Bình Xuyên, đóng ở Rừng Sát. Lúc đó, VM mời Bảy
Viễn về Đồng Tháp Mười phong chức Khu
trưởng khu 7. Bảy
Viễn dự đoán có thể đây là một kế hoạch
giải tán Bình Xuyên, và bắt giữ cá nhân ông, nên Bảy Viễn
đem lực lượng Bình Xuyên về thành phố, quy
thuận với chính phủ Trung ương Lâm thời, và
được phong làm đại tá tạm thời kể
từ ngày 1-8-1948. (Đoàn Thêm, sđd. tr. 48.) (Còn tiếp)
TRẦN GIA PHỤNG
(Toronto,
01-01-2009)
CHÚ THÍCH
1.
Nguyễn
Khắc Ngữ, Bảo Đại,
các đảng phái Quốc gia, và sự thành lập chính quyền
Quốc gia, Tủ sách Nghiên cứu Sử Địa,
Montréal, 1991, tt. 21-22.
2.
Đoàn
Thêm, Hai mươi năm qua,
1945-1964, Sài Gòn: 1965, California:
Nxb Xuân Thu tái bản, không đề năm, sđd. tt. 44-45. (Viết tắt: Đoàn Thêm, tr.)
3.
Cờ
hình chữ nhật, chiều ngang bằng 2/3 chiều dài, nền
vàng giống như cờ của Trần Trọng Kim,
nhưng thay vì quẻ ly, nay đổi lại ba sọc
đỏ bằng nhau chạy dài theo chiều ngang của
lá cờ. Ba sọc nầy
tượng trưng cho sự thống nhất ba miền
lãnh thổ Bắc, Trung, và Nam phần của đất
nước, trên nền vàng tượng trưng căn bản
của quốc gia.
4.
Hồ Chí Minh toàn tập [tập] 5, 1947-1949, xuất
bản lần thứ hai, Hà Nội: Nxb. Chính trị Quốc
Gia, 2000, tr. 907.