CHÀO MỪNG 2009
KỶ NIỆM
SÁU MƯƠI NĂM QUỐC GIA VIỆT NAM
(Bài 1: GIẢI PHÁP BẢO ĐẠI)
Trần Gia Phụng
Vào năm 1949, chiến tranh
đang tiếp diễn giữa Việt Minh (VM) và Pháp, một
biến cố chính trị quan trọng xảy ra làm thay
đổi tính chất và chiều hướng của cuộc
chiến ở Việt Nam.
Đó là sự thành lập chính thể Quốc Gia Việt
Nam,
do cựu hoàng Bảo Đại làm quốc trưởng
sau hiệp định Élysée
ngày 8-3-1949. Cho
đến năm nay (2009), Quốc Gia Việt Nam
được tròn 60 tuổi.
1. VAI TRÒ CỦA CỰU HOÀNG BẢO
ĐẠI
Từ khi nắm được quyền lực
năm 1945, Mặt trận VM theo chủ nghĩa cộng sản,
liên tục khủng bố và tiêu diệt một cách có hệ
thống toàn bộ những nhà hoạt động chính trị
không cộng sản. Vì tình hình đòi hỏi, đôi khi VM tạm thời
liên kết với những đảng phái đối lập,
nhưng ngay trong lúc đó, VM cũng kiếm cách bí mật
tiêu diệt họ.
Nhiều nhà chính trị thấy rõ dã tâm của
VM nên đã sớm rời bỏ chính phủ liên hiệp do
Hồ Chí Minh đứng đầu. Nguyễn Hải Thần phản
đối hiệp định Sơ bộ
(6-3-1946), rút lui khỏi chính phủ sau ngày ký, rồi bỏ
sang Quảng Tây (Trung Hoa). Tháng 6-1946 Nguyễn Tường Tam trở lại
Nam Kinh (Trung Hoa). Vũ Hồng Khanh bỏ qua Vân Nam (Trung
Hoa).
Những người theo
chủ nghĩa dân tộc, với lập trường tự
do dân chủ, dần dần tách ra khỏi mặt trận
VM. Vì bị VM truy đuổi,
tận diệt, những người nầy bị dồn
vào thế tranh đấu sống còn với VM, chỉ còn một
con đường duy nhất là phải về thành phố
sinh sống và chẳng đặng đừng phải tạm
thời liên kết với Pháp, tìm kiếm một giải
pháp chính trị để chống cộng, dù biết rằng
thực dân Pháp không thực tâm và chỉ muốn lợi dụng
tất cả các cơ hội để duy trì quyền lợi
của Pháp tại Việt Nam.
Nói cách khác, những người bất đồng
chính kiến với VMCS, theo chủ nghĩa
dân tộc rơi vào thế kẹt giữa hai thế lực
cộng sản và thực dân, nhưng phải tạm thời
chấp nhận liên kết với thực dân Pháp để
chống cộng. Nhân vật
thích hợp nhất cho giải pháp nầy được
nhiều người lúc đó nghĩ đến là cựu
hoàng Bảo Đại, một người không đảng
phái, đứng giữa các đảng phái, và là vị vua
ai cũng biết tiếng tăm khi ông tự nguyện
thoái vị, từ bỏ quyền lợi gia tộc vì sự
đoàn kết quốc gia.
Về phía người Pháp,
sau khi thương thuyết bất thành với Hồ Chí
Minh, Pháp cũng cần tìm một giải pháp chính trị
cho cuộc đối đầu với VM.
Trước đây,
người Pháp bất bình về những đòi hỏi
cởi trói bảo hộ và đòi hỏi độc lập
của vua Bảo Đại khi còn ở trên ngôi báu, nhất
là bản Tuyên ngôn độc lập mà vua Bảo Đại
đã công bố ngày 11-3-1945 nhân cuộc đảo chánh của
quân Nhật, lật đổ Pháp tại Đông
Dương (9-3-1945).
Tuy nhiên, người Pháp biết rằng Bảo
Đại vốn mềm mỏng, không có cá tính mạnh, có
thể dễ gây ảnh hưởng.(1) Hơn nữa, ông ở
vị trí đơn thân, không có phe nhóm, không có những
người xuất sắc làm tham mưu, không có đảng
phái chính trị đứng sau lưng.
Trước mắt chính giới quốc tế,
lúc đó cựu hoàng Bảo Đại là nhân vật sáng giá
nhất, đứng giữa các phe nhóm chính trị Việt
Nam từ tả (VM cộng sản) đến hữu (Việt
Nam Quốc Dân Đảng), và cũng là nhân vật
tương đối được lòng toàn dân cả ba
miền Bắc, Trung và Nam Việt Nam, hơn hẳn các nhân
vật địa phương của từng miền.
Về phía cựu hoàng Bảo Đại, ngày
16-3-1946, ông tháp tùng phái đoàn VM qua Trung Hoa thăm viếng
xã giao chủ tịch nước nầy là thống chế
Tưởng Giới Thạch.
Khi phái đoàn VM trở về, theo lời cựu
hoàng, ông bị VM bỏ rơi lại ở Côn Minh (Kunming, tỉnh Vân Nam) vào tháng 4-1946.(2)
Rời Côn Minh, cựu hoàng đến Hồng
Kông ngày 15-9-1946. Từ
đó, ông không liên lạc với nhà cầm quyền Hà Nội. Hồ Chí Minh lo ngại cựu
hoàng sẽ nghiêng về phía đối lập, nên vào giữa
tháng 11-1946 (trước khi chiến tranh bùng nổ), Hồ
Chí Minh cử bác sĩ Phạm Ngọc Thạch qua Hồng
Kông gặp cựu hoàng để yêu cầu cựu hoàng “nên cảnh giác người Pháp,
và đề phòng tất cả bọn Việt gian làm tay sai
cho Pháp”.(BĐ, sdd. tr. 258.)
Sau Phạm Ngọc Thạch, các ông Vũ Hồng
Khanh, Nguyễn Tường Tam, Nguyễn Hải Thần,
cùng đến gặp cựu hoàng tại khách sạn
Gloucester, nơi cựu hoàng đang lưu ngụ ỏ Hồng
Kông. Cả ba
người kêu gọi cựu hoàng đứng ra gánh vác việc
nước trở lại.
Theo cựu hoàng Bảo Đại, tiếp theo các nhân
vật nầy là Trần Trọng Kim.(BĐ,
sđd. tr. 259.) Chính khách nầy
khuyên cựu hoàng nên liên lạc với Trung Hoa Quốc Dân
Đảng, nhưng cựu hoàng không đồng ý. Cựu hoàng Bảo Đại nói
với Trần Trọng Kim: “Chưa
biết chừng bọn Trưởng Giới Thạch cũng
phải cuốn gói chạy ngày nào đấy.”(3)
Ngoài ra, có thêm nhiều lãnh tụ chính trị
khắp Bắc, Trung, Nam Việt Nam, lần lượt
đến Hồng Kông gặp cựu hoàng, như Phan Huy
Đán (sau đổi thành Phan Quang Đán), Đinh Xuân Quảng,
Trần Văn Tuyên, Lê Văn Hoạch, Phạm Văn Bính,
Ngô Đình Diệm, Phạm Công Tắc, Trần Văn Soái,
hoàng thân Vĩnh Cẩn (ông hoàng Tùng Đệ) với em là Vĩnh
Tường và Phan Văn Giáo. Tất cả đều đề nghị cựu
hoàng trở về tham chính.
Về phía Pháp, cao uỷ Thierry D'Argenlieu cử
thám tử riêng của Tòa lãnh sự Pháp ở Hồng Kông
tên là Yole, đặc biệt theo dõi hoạt
động của cựu hoàng ở Hồng Kông. Yole đưa cựu
hoàng đến gặp một lãnh tụ Pháp ở Hồng
Kông là Joubert. Yole còn chuyển
tiền của D'Argenlieu, gởi qua Hồng Kông giúp đỡ
Bảo Đại.(BĐ, sđd. tt. 252-266)
Không phải vì nhân đạo
mà D'Argenlieu gởi tiền giúp cựu hoàng Bảo Đại.
Tại Sài Gòn, sau khi tiếp xúc với nhiều nhân vật
chính trị Việt Nam, D'Argenlieu phúc trình lên chính phủ Pháp
ngày 14-1-1947 rằng tại Việt Nam nên “trở lại nền quân chủ cố hữu...”(BĐ,
sđd. tt.
269-270.) Tuy
thế, cũng chưa phải dễ dàng đi đến
sự hợp tác giữa cựu hoàng và người
Pháp.
Sau cuộc đàm phán thất bại của
Paul Mus với Hoàng Minh Giám và Hồ Chí Minh ở vùng sông
Đuống ngày 12- 5-1947, một
nhân viên lãnh sự Pháp ở Hồng Kông tên là Cousseau đến
thăm dò cựu hoàng khoảng cuối tháng 5-1947. Cựu hoàng
cương quyết đòi người Pháp “hãy thỏa mãn nguyện vọng của
dân chúng Việt Nam,
nước Pháp hãy trả lại nền thống nhất
và độc lập cho họ”. (BĐ,
sđd. tr. 278.)
Ngày 5-7-1947, cựu hoàng Bảo Đại
đưa ra lời tuyên bố công khai đầu tiên về
chủ trương của mình trên báo Union Française (Liên Hiệp
Pháp), bản dịch như sau:
“Nếu tất cả
dân chúng Việt Nam đều đặt tín nhiệm nơi
tôi, nếu mặt khác, sự hiện diện của tôi có
thể góp phần đem lại sự giao hảo của
dân tộc tôi với người Pháp, tôi sẽ sung sướng
để trở về nước. Tôi không ủng hộ
Việt Minh và cũng không chống Việt Minh. Tôi không theo
đảng phái nào. Hòa bình sẽ
trở lại nhanh chóng, nếu người Pháp hiểu rằng
tinh thần dân tộc tôi không giống như trước
cách đây mười năm.
Tôi không muốn nói dài hơn nữa, vì chính phủ Pháp
đã hiểu lập trường của tôi rồi. Đề nghị của
tôi là muốn đóng vai trò hòa giải giữa nước
Pháp và các phe phái ở Việt Nam.”
(BĐ, sđd.
tr. 280.)
2.-
BẢO ĐẠI GIỮA CÁC THẾ LỰC
Sau thông điệp của cựu hoàng Bảo
Đại, Hồ Chí Minh cải tổ chính phủ VM ngày
19-7-1947, với thành phần mới là:
Chủ tịch
|
Hồ Chí Minh
|
Bộ trưởng
Ngoại giao
|
Hoàng Minh Giám
|
Bộ trưởng
Quốc phòng
|
Tạ Quang Bửu
|
Bộ trưởng
Tài chánh
|
Lê Văn Hiến
|
Bộ trưởng
Tư pháp
|
Vũ Đình
Hòe
|
Bộ trưởng
Kinh tế
|
Phan Anh
|
Cố vấn
|
Vĩnh Thụy
|
Bộ trưởng
Canh nông
|
Ngô Tấn
Nhơn
|
Bộ trưởng
Y tế
|
Hoàng Tích Tri
|
Bộ trưởng
Lao động
|
Nguyễn
Văn Tạo
|
Bộ trưởng
Cứu tế Xã hội
|
Chu Bá Phượng
|
Bộ trưởng
Giáo dục
|
Nguyễn
Văn Huyên
|
Bộ trưởng
Cựu chiến binh
|
Vũ Đình Tụng
|
Bộ trưởng
Quốc vụ khanh
|
Nguyễn
Văn Tố
|
|
Đặng
Văn Hướng
|
|
Bồ Xuân Luật
|
Thứ trưởng
Nội vụ
|
Trần Duy
Hưng
|
Thứ trưởng
Tài chánh
|
Trần Văn
Bính
|
Thứ trưởng
Tư pháp
|
Trần Công
Tường
|
Thứ trưởng
Canh nông
|
Nghiêm Xuân Yêm
|
Thứ trưởng
Y tế
|
Tôn Thất Tùng
|
Thứ trưởng
Giáo dục
|
Nguyễn Khánh
Toàn
|
Thứ trưởng
Cựu chiến binh
|
Ngô Tử Hạ
|
Thứ trưởng
Kinh tế Nhà nước
|
Cù Huy Cận
|
Tổng tư lệnh
Quân đội
|
Võ Nguyên Giáp
|
Theo các giới chức ngoại giao lúc đó,
Hồ Chí Minh lo ngại Pháp sẽ nói chuyện với cựu
hoàng Bảo Đại, nên cải tổ chính phủ, tạm
thời loại bớt những phụ tá thân cận
như Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp ra khỏi nội
các, nhằm bớt tính chất cộng sản, để tỏ
dấu hiệu VM muốn thương thuyết với Pháp.(4)
Điều đặc biệt là Hồ Chí
Minh vẫn lưu giữ tên cựu hoàng Bảo Đại
trong vai trò “cố vấn” chính phủ VM, dù cựu hoàng
đã ở Hồng Kông từ hơn một năm qua. Trong một lời tuyên bố sau
đó, vào cuối tháng 7-1947, Hồ Chí Minh lại nói về
cựu hoàng như sau:
“Nhiều nhân viên
chính phủ và cả tôi nữa, đều là bạn thân của
Cố vấn Vĩnh Thụy, ai cũng khao khát được
gặp mặt lại Cố vấn, và mong muốn người
trở về, để cùng chúng tôi chăm lo việc
nước. Nhưng
hiện nay Cố vấn Vĩnh Thụy chưa thể dời
bỏ Hồng Kông về được. Chúng tôi dù cách mặt
nhưng chẳng xa lòng.
Chính phủ và dân chúng Việt Nam hoàn toàn tin tưởng
vào lòng trung thành của Cố vấn Vĩnh Thụy, dù ở
ngoại quốc, vẫn tiếp tục làm việc cho chính
phủ quốc gia mà Cố vấn còn là một thành viên.”
(BĐ. sđd. tr. 281)
Lời tuyên bố của Hồ
Chí Minh làm cho nhiều người hoang mang, không biết lập
trường của cựu hoàng Bảo Đại như
thế nào? Điều nầy lại
tạo ra một hiệu ứng ngược nơi người
Pháp, và cả người Mỹ nữa. Họ lo ngại cựu hoàng theo VM,
nên lại tìm cách liên lạc với cựu hoàng.
Vào đầu tháng 8-1947, chính phủ Pháp cử
thiếu tá Reynaud từ Paris
sang Hồng Kông gặp cựu hoàng.
Reynaud là sĩ quan tùy viên của Bảo
Đại khi còn làm vua ở Huế, khoảng 1935-1936. Gặp Reynaud, Bảo Đại
đưa ra những đòi hỏi giống như đã
nói với Cousseau trong tòa Lãnh sự Pháp ở Hồng Kông,
nghĩa là Pháp phải trao trả độc lập và thống
nhất cho Việt Nam. (BĐ. sđd. tt. 281-282.)
Một sĩ quan Hoa Kỳ thuộc cơ quan
tình báo O.S.S. (Office of Strategic Services, tiền thân của CIA),
thiếu tá Buckley, nhiều lần đến gặp cựu
hoàng cũng vào tháng 8-1947, cho cựu hoàng biết rằng “Hoa Kỳ không thích Hồ Chí Minh
và sẵn sàng yểm trợ cho bất cứ ai có thể
đưa lại độc lập cho Việt Nam, với
điều kiện không phải cộng sản là
được.”(BĐ. sđd. tr. 283.)
Võ Nguyên Giáp
Nhận thấy tình hình đã thích hợp,
ngày 5-9-1947, cựu hoàng Bảo Đại tuyên bố tại
Hồng Kông rằng ông sẵn sàng gặp gỡ các lãnh tụ
chính trị bất cứ thuộc quan điểm chính trị
nào, vào ngày 9-9 để bàn luận và tìm kiếm một kế
hoạch hòa bình cho đất nước. Vào ngày đã định (9-9-1947),
có tất cả 24 người đến họp, trong số
đó có Nguyễn Văn Tâm, Nguyễn Văn Sâm, Trần
Quang Vinh, Trần Văn Lý, Cao Văn Chiêu, Phan Văn Giáo,
Lưu Đức Trung. Những người nầy
đưa ra một bản tuyên ngôn chung
có đoạn viết như sau:
“Toàn thể yêu cầu
cựu hoàng Bảo Đại, người đại diện
độc nhất, đủ tư cách của dân tộc
Việt Nam ra chấp chánh và mở cuộc đàm phán với
nước Pháp, hầu tái lập hòa bình ở Việt Nam
và thực hiện hòa bình và độc lập.” (BĐ. sđd. tr. 284).
Sau đó hai ngày (11-9), Nguyễn Hải Thần
chủ tọa một cuộc họp tại Hồng Kông với
khoảng 30 chính khách như Nguyễn Tường Tam, Trần
Văn Lý, Nguyễn Tường Long, Trương Vĩnh Tống,
Nguyễn Bảo Toàn, Nguyễn Văn Hai, Nguyễn Văn
Sâm, Nguyễn Văn Tâm, Lưu Đức Trung, Cung Giũ
Nguyên...đưa ra một nghị quyết hai điểm:
ủng hộ cựu hoàng Bảo Đại và tranh đấu
cho độc lập thống nhất lãnh thổ. (Chính
Đạo, sđd. tr. 64)
Trong khi đó, cao uỷ
Émile Bollaert thấy khó có thể thương thuyết với
VM, nên Bollaert bắt đầu trở nên cứng rắn với
VM. Ngày 10-9-1947, Bollaert
đọc diễn văn lần thứ hai tại Hà
Đông, nhưng khác với lần trước, lần nầy
ngôn ngữ Bollaert mạnh mẽ hơn.
Đây là dấu hiệu cho
thấy Pháp muốn chấm dứt nói chuyện với VM,
và chuyển qua giải pháp Bảo Đại. Dấu hiệu nầy
được lập lại khi gặp O'Sullivan, phó lãnh sự
Hoa Kỳ tại Hà Nội ngày 14-9-1947, cao uỷ Bollaert nói rằng
bài diễn văn tại Hà Đông ngày 10-9-1947 có ý loại bỏ
Hồ Chí Minh và mở đường cho cựu hoàng Bảo
Đại.
Ngày 29-12-1947, William Bullitt, cựu đại sứ
Hoa Kỳ tại Pháp, trong một bài viết trên báo Life, cho rằng tập hợp
những nhân vật chính trị chung quanh cựu hoàng Bảo
Đại có thể giúp chống Hồ Chí Minh một cách hữu
hiệu. Ý kiến nầy
được giới chính trị Pháp cho rằng Hoa Kỳ
sẵn sàng hậu thuẫn “giải pháp Bảo Đại”.(5)
Có hai cuộc biểu tình của dân chúng Việt
Nam ở trong nước ủng hộ cựu hoàng Bảo
Đại và kêu gọi cựu hoàng về nước chấp
chánh, là cuộc biểu tình ngày 12-8-1947 tại Huế, và cuộc
biểu tình ngày 14-9-1947 tại Sài Gòn. Trong khi đó, chiến
cuộc VM - liên quân Pháp càng ngày càng gia tăng. (Còn tiếp)
TRẦN GIA PHỤNG
(Toronto,
01-01-2009)
CHÚ THÍCH
1.
Philippe
Devillers, Histoire du Viêt-Nam de 1940 à
1952, Editions Du Seuil, Paris 1952, tr. 397.
2.
Bảo
Đại, Con rồng Việt
Nam, California: Nxb. Xuân Thu, 1990, tt.
241-242. (Viết tắt: BĐ, tr.)
3.
Trích
dẫn nguyên văn của Trần Trọng Kim. Ngoài ra, Trần Trọng Kim còn kể
rằng khi vừa gặp nhau, cựu hoàng Bảo Đại
nói với Trần Trọng Kim: “Chúng
mình già trẻ mắc lừa bọn du côn”. (Trích nguyên
văn).[http://vnthuquan.net]
4.
Chính
Đạo, Việt Nam niên biểu 1939-1975, tập B:
1947-1954, Houston:
Nxb. Văn Hóa, 1997, tr. tt. 55-56. (Viết tắt: Chính Đạo,
tr.)
5.
Archimedes
Patti, Why Vietnam?, University
of California Press,
1980, tr. 457.