PHÁP TRỞ
LẠI VIỆT NAM
Trần Gia Phụng
Thế chiến thứ hai bùng nổ ngày
3-9-1939. Đức tràn chiến xa tấn công
Pháp tháng 5-1940. Thủ tướng Pháp
Paul Reynaud, mới cầm quyền ngày 23-3-1940, liền từ chức ngày
16-6-1940. Thống chế Henri Philippe Pétain
lên thay, đứng ra điều đình với Đức.
Pétain ký hiệp định đình chiến với Đức tại Compiègne ngày 22-6-1940,
giao cho Đức khoảng 3/5 nước Pháp ở phía bắc. Từ ngày 2-7-1940, chính phủ
Pétain dời đô đến Vichy, quận hạt Allier, vùng Auvergne, miền trung nước
Pháp, nên thường được gọi là chính phủ Vichy.
Thiếu tướng Charles de Gaulle,
thứ trưởng bộ Quốc phòng (từ ngày 5-6-1940) trong chính phủ của thủ tướng
Paul Reynaud, bỏ qua Anh. De Gaulle
lên đài phát thanh London ngày 18-6-1940, kêu gọi dân chúng thuộc địa Pháp tiếp
tục chiến đấu chống Đức. De Gaulle vận
động và thành lập Comité National Français (Uỷ Ban Quốc Gia Pháp) tại
London ngày 24-9-1941.
Vì bị Nhật tấn công ở Pearl
Harbor (Honolulu, Hawaii) ngày 7-12-1941, Hoa Kỳ tuyên chiến với Nhật ngày 8-12-1941,
rồi tuyên chiến với đồng minh của Nhật là Đức, Ý ngày 11-12-1941. Hoa Kỳ thừa nhận UBQG Pháp ngày 9-7-1942,
cắt đứt ngoại giao với chính phủ Pétain.
1. PHÁP CHỦ TRƯƠNG TRỞ
LẠI VIỆT NAM
Charles de Gaulle qua các thuộc
địa Pháp ở Phi Châu hoạt động. Ngày 3-6-1943, Uỷ Ban Giải Phóng Quốc Gia
Pháp (UBGPQGP) (Comité Français de la Libération Nationale) được thành lập
tại Alger (Algérie). Ủy ban bầu hai
tướng Charles de Gaulle và Henri Giraud làm đồng chủ tịch, lãnh đạo kháng
chiến Pháp.
Lúc đó, quân đội Nhật đã xâm nhập
và thao túng Đông Dương từ 1940, tuy vẫn để nhà cầm quyền bảo hộ Pháp tồn tại. Toàn quyền Pháp ở Đông Dương là đô đốc
Jean Decoux, thuộc quyền của chính phủ Pétain thân Đức.
Sau ba tháng thành lập, UBGPQGP
chống Đức và chống Pétain, cử tướng René Blaizot phụ trách Đạo quân Viễn
chinh Viễn đông (Corps Expéditionnaire d’Extrême-Orient) vào tháng 9-1943,
nhắm đến mặt trận Đông Dương. (Philippe Devillers, Histoire du Viêt-Nam de 1940 à 1952, Editions Du Seuil, Paris
1952, tr. 145.) Tuy nhiên, mọi việc
phải đợi đến sau khi giải phóng xong nước Pháp ra khỏi tay Đức Quốc
Xã.
Ngày 8-12-1943, cũng từ Alger,
UBGPQG Pháp ra thông báo về chính sách đối với các nước Đông Dương, có đoạn
như sau:
“... Với các dân tộc đã biết xác định cùng một lúc tình cảm yêu nước và ý thức trách nhiệm chính trị của mình,
nước Pháp đồng ý ban hành, trong lòng cộng đồng Pháp, một quy chế chính trị
mới mà, trong khuôn khổ của tổ chức liên bang, những quyền tự do của các nước
khác nhau trong Liên hiệp sẽ được nới rộng và xác lập; tính chất tự do rộng
rãi của các chế độ sẽ được nhấn mạnh mà không mất dấu hiệu của nền văn minh
và truyền thống Đông Dương; những người Đông Dương, cuối cùng, có thể nhận
làm bất cứ công việc gì và chức vụ nào của Nhà nước.
Cùng với sự cải cách quy chế chính trị nầy, sẽ có một cuộc cải
cách quy chế kinh tế của cả Liên hiệp mà, trên căn bản tự trị về quan thuế
và thuế khóa, sẽ bảo đảm sự phồn thịnh của Liên hiệp và góp phần vào sự phồn
thịnh của các nước lân bang...” (Philippe Devillers, Paris Saigon Hanoi, Paris: Gallimard-Julliard, 1988,tr. 23.)
Ngày 1-2-1944, De Gaulle ra lệnh
cho tướng René Blaizot thành lập Lực
lượng Viễn chinh Pháp tại Viễn đông (F.E.F.E.O = Forces Expéditionnaires
Françaises d'Extrême-Orient), gồm 2 lữ đoàn thuộc địa là Madagascar và
Cameroun, và một đơn vị khinh binh ứng chiến (Corps Léger d'intervention).
Đạo quân F.E.F.E.O được đặt dưới Bộ Chỉ huy Đồng minh tối cao Đông Nam Á do
đô đốc người Anh là bá tước Louis Mountbatten điều khiển. (Philippe
Devillers, Histoire du Viêt-Nam de
1940 à 1952, sđd. tr. 145.)
Trong cuộc họp của UBGPQG Pháp
do De Gaulle chủ trì tại Brazzaville
ở Congo, được xem là thủ phủ của Pháp tại Phi Châu, từ 30-1 đến 8-2-1944, để
thảo luận về các vấn đề thuộc địa sau thế chiến thứ hai, bản tuyên bố vào
cuối Hội nghị có đoạn viết:
“ Các mục đích của sự nghiệp thực dân mà nước Pháp thực hiện tại các thuộc địa đã loại bỏ ý định tự trị, mọi
khả năng tiến hóa ngoài khuôn khổ đế quốc Pháp: cơ cấu một chính phủ tự trị
có thể có tại các thuộc địa dù cho còn lâu mới được thực hiện, phải bị loại
trừ.” (Hoàng Hiển, Vua Duy Tân,
Huế: Nxb. Thuận Hóa, 1996, tr. 90.)
Ngày 24-8-1944, trung tướng
Philippe Leclerc de Hautelocque (gọi tắt là Leclerc) dẫn quân giải phóng
Paris. Chính phủ Vichy của thống chế
Pétain sụp đổ. Charles de Gaulle trở
về thủ đô Pháp, lập chính phủ lâm thời ngày 10-9-1944. (De Gaulle làm thủ tướng lâm thời đến
ngày 20-1-1946 thì từ chức. Chủ tịch
quốc hội là Félix Gouin được cử lên thay ngày 24-1-1946.)
Ngày 13-9-1944, chính phủ lâm
thời Pháp quyết định chuyển gấp hai sư đoàn cho tướng René Blaizot. Ngày 26-10-1944, tướng Blaizot đến đặt bản
doanh tại Kandy (Tích Lan = Ceylon tức Sri Lanka từ 1972), thành lập lực lượng
viễn chinh Á Châu. Nơi đây Hoa Kỳ và
Anh lập bộ chỉ huy Đồng minh tối cao Đông Nam Á (Supreme Allied Commander
South East Asia Theatre) năm 1943, do đô đốc Louis Mountbatten đứng đầu. Pháp muốn nhờ Anh và Hoa Kỳ trang bị và
chuyên chở quân sự sang Đông Dương, nhưng hai nước nầy đang lo việc phản
công chống quân Nhật, vì lúc đó Nhật còn chiến đấu ở Á Châu.
Tiếp đó, ngày 9-3-1945 Nhật lật
đổ nhà cầm quyền bảo hộ Pháp ở Đông Dương, chủ trương để cho Việt Nam độc lập. Vua Bảo Đại công bố bản Tuyên ngôn độc lập
ngày 11-3, làm cho De Gaulle rất tức giận.
Gần nửa tháng sau, ngày 24-3-1945 thủ tướng De Gaulle tuyên bố về vấn
đề Đông Dương như sau:
“ Liên bang Đông Dương sẽ hợp cùng với nước Pháp và các thành phần
khác trong cộng đồng thành Liên Hiệp Pháp, mà nước Pháp sẽ đại diện để đảm
trách những quyền lợi ở bên ngoài.
Đông Dương sẽ được hưởng nền tự do riêng trong Liên Hiệp nầy.
Những người thuộc quốc tịch liên bang Đông Dương sẽ là công
dân Đông Dương và công dân Liên Hiệp Pháp.
Với tư cách nầy, họ sẽ được giữ một cách công bằng theo khả năng mọi
chức vụ và công việc liên bang ở Đông Dương cũng như trong Liên Hiệp Pháp,
không phân biệt sắc tộc, tôn giáo, nguồn gốc.
Những điều kiện theo đó Liên bang Đông Dương sẽ tham gia vào
các cơ chế Liên Hiệp Pháp, cũng như quy chế công dân Liên Hiệp Pháp, sẽ được
ấn định bởi Hội đồng lập hiến.” (Charles de Gaulle, Mémoires de guerre, Le salut:
1944-1946, Paris: Plon, 1959, tr. 439.)
Đức đầu hàng Đồng minh ngày
7-5-1945. Anh, Hoa Kỳ và Liên Xô họp
thượng đỉnh tại Potsdam (Đức) ngày 17-7-1945. Pháp không được tham dự, nhưng Paris biết
ngay nội dung của tối hậu thư Potsdam ngày 26-7-1945 của Anh, Hoa Kỳ và
Trung Hoa gởi cho Nhật về việc giải giới quân đội Nhật tại Đông Dương. Ngày 11-8-1945, bộ Ngoại giao Pháp gởi
thư cho Hoa Kỳ, Anh, Liên Xô và Trung Hoa đề nghị giao việc giải giới quân
đội Nhật tại Đông Dương cho Pháp. (Chính Đạo, Việt Nam niên biểu, tập A, Houston: Nxb. Văn Hóa: 1996, tr.
241.)
Sau đó, thủ tướng Charles De
Gaulle qua Hoa Kỳ thương thuyết với tổng thống Harry Truman trong hai ngày
22 và 24-8-1945. Tổng thống Truman nhận
chức thay thế tổng thống Franklin Roosevelt từ trần ngày 12-4-1945. Harry Truman từ bỏ chủ trương
International Trusteeship ở Đông Dương của Roosevelt. Trước khi rời Hoa Kỳ, De Gaulle tuyên bố
sẽ thiết lập một chế độ mới tại Đông Dương gồm cả người bản xứ và kiều dân
Pháp, do một đại diện của chính phủ Pháp chủ trì, sẽ có một nghị viện và một
nền kinh tế tự do. Quân đội Pháp sẽ
giải giới quân đội Nhật ở Đông Dương. (Chính Đạo, sđd. tr. 250).
Đại sứ Pháp tại Hoa Kỳ đưa đề
nghị ngày 28-8 rằng Anh sẽ giải giới quân Nhật trên toàn cõi Đông Dương, hoặc
Pháp nhận lễ đầu hàng của quân Nhật ở miền nam vĩ tuyến 16, còn các tướng lãnh
Nhật ở phía bắc vĩ tuyến 16 làm lễ đầu hàng ở Trung Hoa. Hai ngày sau (30-8), ngoại trưởng Hoa Kỳ
trả lời rằng không thể đi ngược lại quyết định trong tối hậu thư Potsdam,
nhưng Pháp có thể dàn xếp riêng với Anh và Trung Hoa. (Chính Đạo, sđd. tt. 248, 250, 252, 254.)
Lúc đó, chiến tranh vừa chấm dứt
ở Âu Châu. Hoa Kỳ cần sự hợp tác của
Anh và Pháp để thực hiện các kế hoạch hậu chiến, nên Hoa Kỳ uyển chuyển với
Pháp, không cản trở việc Pháp kiếm cách trở lại Đông Dương. Hoa Kỳ chuyển trách nhiệm về phía Anh và
Trung Hoa.
Có thể do sự mềm dẻo của chính
phủ Hoa Kỳ, các thương thuyền Hoa Kỳ đã chở từ 14,000 đến 24,000 quân Pháp
đến Việt Nam từ tháng 10 đến tháng 12-1945.
(Patricia K. Lane, “Éléments sur la mise en oeuvre de la politique
américaine envers l'Indochine, 1940-1945”, đăng trong Les Cahiers de l'Institut D'Histoire Du Temps Présent, Paris:
Charles-Robert Ageron và Philippe Devillers chủ biên, số 34, tháng 6-1996,
tr. 33.)
2. PHÁP GỞI QUÂN QUA
ĐÔNG DƯƠNG
Thủ tướng Charles de Gaulle cử
tướng Leclerc làm chỉ huy lực lượng lục quân Pháp ở Đông Dương ngày
16-8-1945. Hôm sau 17-8-1945, De
Gaulle ký nghị định thành lập chức cao uỷ Pháp tại Đông Dương
(Haut-commissaire de France pour l'Indochine), có quyền hạn của một toàn
quyền kiêm chỉ huy hải lục không quân Pháp ở Đông Dương. Ông cử người cộng sự thân tín là đô đốc
Georges Thierry d'Argenlieu, gốc linh mục Ky-Tô giáo La-Mã, giữ chức vụ nầy.
Ngày 17-8, Leclerc rời Paris
qua Đông Dương. Trên đường đi,
Leclerc ghé Kandy (Tích Lan) ngày 22-8 theo lời mời của đô đốc Louis
Mountbatten, chỉ huy tối cao lực lượng Đồng minh ở Đông Nam Á. Trong cuộc gặp gỡ, bá tước Mountbatten
cho Leclerc biết rõ nội dung tối hậu thư Potsdam.
Mountbatten cho biết hy vọng thủ
tướng De Gaulle, đang viếng thăm Hoa Kỳ (từ 22-8-1945), có thể sẽ thuyết phục
tổng thống Harry Truman xem xét lại các thỏa ước và hy vọng Truman sẽ áp lực
với Tưởng Giới Thạch, để giao cho Pháp việc giải giới quân Nhật. Leclerc liền
điện về cho chính phủ Pháp, nhưng quyết định Potsdam vẫn không được sửa đổi. (Philippe Devillers, sđd. tt. 149-150.)
Leclerc yêu cầu chính phủ Pháp
gởi ngay quân sang Đông Dương. Tuy
nhiên Pháp thiếu phương tiện chuyên chở.
Lelerc phải nhờ đến Anh và Hoa Kỳ.
Mountbatten tận tình giúp máy bay, tàu đổ bộ, nhiên liệu, vũ khí,
thiết bị thay thế, thuốc men, thực phẩm ...
Trước khi quân đội Nhật Bản chính
thức tuyên bố đầu hàng (14-8-1945), bộ chỉ huy Pháp ở Calcutta (Ấn Độ) ra lệnh
cho người Pháp nhảy dù xuống Đông Dương ngày 13-8-1945, kể cả những nhân
viên dân sự. Nhiều toán người Pháp
được thả xuống ở Bắc và Trung Kỳ. Đa
số bị giết hoặc bị bắt giam.
Tối 22 rạng 23-8-1945, Pierre
Messmer, uỷ viên Cộng Hòa Pháp ở Bắc Kỳ và hai đồng sự là Brancourt (dược
sĩ, đại úy) và Marmot (trung sĩ truyền tin) nhảy dù xuống gần Phúc Yên, bị
bắt cả toán. (Archimedes L. A. Patti, Why
Viet Nam?, California: University of California Press, Berkely, 1980,
tr. 260.) Về sau Messner trốn thoát
được một cách khó khăn. (Philippe
Devillers, sđd. tr. 150.)
Từ Côn Minh hay Kunming (Vân
Nam, Trung Hoa), một người Pháp khác là trung tá hải quân Blanchar, nhảy dù
xuống Hải Phòng ngày 16-8, đi lên Hà Nội ngày 22-8 bằng đường bộ. Blanchar cùng bốn đồng đội bị quân Nhật bắt,
và chuyển đến Hà Nội ngày 23-8-1945.
Hôm trước (22-8), Jean
Sainteny, trưởng phái bộ quân sự Pháp tại Trung Hoa (trở thành ủy viên Cộng
Hòa Pháp ỏ Bắc Kỳ từ 2-10-1945 thế Messner), cùng bốn đồng đội được A.
Patti, thiếu tá tình báo nhóm O.S.S. 202 (Hoa Kỳ), đưa từ Côn Minh đến phi
trường Gia Lâm (Hà Nội) trên chiếc Dakota của Không lực Hoa Kỳ.
Jean Sainteny vào ở dinh toàn
quyền Pháp cũ, liên lạc với giới dân sự Pháp, tìm cách nhận lại những tù
binh chiến tranh Pháp bị quân Nhật bắt.
Ngày 27-8-1945, Võ Nguyên Giáp, đại diện Uỷ ban Giải phóng của Việt
Minh, đến thăm xã giao, nhưng sau đó, Sainteny cùng đồng đội bị giam lỏng
trong dinh toàn quyền dưới sự kiểm soát của người Nhật, không liên lạc được
với ai cả. (Philippe Devillers, sđd.tr.
151.)
Ngày 29-8-1945, Leclerc đáp máy
bay qua Nhật, đại diện Pháp, ký vào
hiệp ước đầu hàng của Nhật ngày 2-9-1945 trên chiến hạm Missouri, thả neo trong vịnh Đông
Kinh (Tokyo). Chỉ huy trưởng lực lượng
Hoa Kỳ ở Nhật Bản, tướng Douglas Mac-Arthur đã nói với Leclerc: “ Nếu tôi được khuyên ngài, thì ngài hãy
đem theo [qua Đông Dương] nhiều
quân sĩ, nhiều nữa, càng nhiều theo sức ngài.” (Nguyên văn lời của
Mac-Arthur: “Bring troops, more
troops, as many as you can.”). (Philippe Devillers, sđd. tr. 150.)
Như thế, rõ ràng cả Hoa Kỳ và
Anh đều khuyến khích và tạo điều kiện cho Pháp trở lại tái chiếm Đông Dương.
TRẦN GIA PHỤNG
(Toronto, 23-08-2015)
|