PHAN CHÂU TRINH
VÀ CUỘC
LY KHAI VĂN HÓA HÁN TỘC
(Trình bày trong Lễ Giỗ
Phan Châu Trinh ngày 27-3-2011 tại Nam Cali)
I.- ẢNH HƯỞNG CỦA VĂN HÓA HÁN TỘC
Ảnh hưởng của văn hóa
Hán tộc có thể chia thành hai thời kỳ: Thời kỳ 1,000 năm Trung
Quốc đô hộ cổ Việt và thời kỳ
đất
nước
chúng ta độc lập từ năm 938 cho đến
thế kỷ 20.
Trong một ngàn năm đô
hộ,
người
Trung Quốc áp đặt nền văn hóa Hán tộc là
chuyện bình thưòng.
Tuy vậy, trong thời kỳ nầy
người
Trung Quốc chú trọng nhiều đến việc khai
thác và bóc lột kinh tế hơn là việc phát
triển văn hóa. Trung
Quốc không tổ chức thi cử để tuyển
lựa
nhân tài địa
phương cổ Việt, nên người
Việt ít chú trọng đến việc học chữ
Hán, vì học chẳng làm gì cả.
Trong thời kỳ độc lập, từ
Ngô Quyền trở đi, các triều đình Việt sử dụng chữ Hán
làm văn tự
chính thức, dầu người
Việt vẫn nói tiếng Việt. Nền văn hóa Hán tộc
chẳng những tiếp tục được
truyền bá, mà còn được truyền bá mạnh
hơn, nhất
là từ
năm 1075, nhà Lý mở khoa thi tam trường
đầu
tiên để
tuyển chọn quan lại.
Thi cử được các triều
đại quân chủ tiếp tục tổ chức cho
đến đầu thế kỷ 20.
Thi cử là phương
pháp tuyển
chọn nhân tài dân chủ, đồng thời thi cử là con đường duy nhất để ra làm quan, nên từ
khi có thi cử Hán học ở nước ta,
thì có nhiều người theo đuổi
việc học chữ Hán và nền văn hóa Hán tộc
để tiến thân. Chương
trình
thi cử chủ yếu là các bộ sách Nho học, cộng
thêm lịch sử Trung Quốc và một ít lịch sử
nước
Nam.
Các bộ sách giáo khoa nho học là Tứ
thư
và Ngũ kinh. Tứ thư gồm Đại học, Trung dung,
Luận ngữ, Mạnh Tử. Ngũ kinh gồm có Kinh
thi, kinh thư, kinh lễ, Kinh
dịch và Kinh Xuân thu.
Xã hội Nho giáo dựa trên căn bản ba
mối quan hệ căn bản trong đạo
làm người
(tam cương) là quân thần (vua tôi), phu phụ
(chồng vợ) và phụ tử (cha con). Trong ba mối quan hệ nầy,
thì đạo quân thần (vua tôi) là lớn nhất. Vua là trung tâm của mọi sinh
hoạt xã hội, đứng đầu xã hội.
Chế độ quân chủ Hán tộc khác
với chế độ quân chủ Tây
phương ở chỗ trong
nền quân chủ Hán tộc, vua là “con trời” (thiên
tử), vừa nắm thế quyền, cai trị
đất
nước,
vừa nắm thần quyền, phong chức thần
linh. Ở
Tây phương, vua chỉ nắm thế quyền. Thần quyền thuộc về
giáo hội Ky-Tô.
II.- PHAN CHÂU TRINH VÀ CÔNG CUỘC LY KHAI
VĂN HÓA HÁN TỘC
Như đã trình bày, tuy các triều
đại quân chủ dùng chữ Hán làm chuyển ngữ,
nhưng người Việt vẫn nói tiếng
Việt. Tiếng Việt là kỳ quan biểu tượng
cho tinh thần độc lập của dân tộc Việt. Từ thế kỷ 17, khi
đến truyền đạo tại Đại Việt,
các giáo sĩ Ky-Tô giáo La Mã ký âm
tiếng Việt bằng mẫu tự La-tinh, sáng
chế một văn tự mới là Quốc ngữ. Lúc đầu, Quốc ngữ
chỉ
được
truyền
bá trong khuôn viên giáo đường. Khi người Pháp xâm chiếm 6
tỉnh Nam Kỳ làm thuộc địa năm 1874, vì nhu
cầu cai trị, người Pháp sử dụng
chữ Quốc ngữ. Trong
thuộc địa Nam Kỳ, Pháp bãi bỏ hoàn toàn chữ
Hán ngày 1-1-1882, chỉ sử dụng chữ Pháp và Quốc
ngữ.
Bảo hộ Trung và Bắc Kỳ năm
1884, do chủ trương khai thác và bóc lột, Pháp
giới hạn việc mở mang giáo dục tại
vùng đất
bảo hộ, chỉ lập một số
trường
Pháp cần thiết, dạy chữ Pháp để
đào tạo
lớp quan lại mới cho chế độ mới. Pháp vẫn để triều
đình Huế duy trì thi cử Hán học ở Trung và
Bắc Kỳ.
Trong hoàn cảnh đó, qua đầu thế
kỷ 20, dầu đã đậu phó bảng Hán học
năm 1901, khi dấn thân hoạt
động duy tân để mở mang đất nước
năm 1904, Phan Châu Trinh (1872-1926) đưa
ra chủ trương
“chấn dân khí, khai dân trí,
hậu dân sinh”. Để
mở đầu cuộc khai dân trí nhằm chấn dân khí
và hậu dân sinh, đầu tiên Phan Châu Trinh vận
động từ bỏ “cái học cũ”. Muốn từ bỏ “cái
học cũ”, việc đầu tiên Phan Châu Trinh chủ
trương là bãi bỏ việc học chữ Hán,
và bãi bỏ việc dùng
chữ Hán, đồng thời từ bỏ luôn thi cử
Hán học.
Từ bỏ thi cử Hán học, tức từ bỏ
việc học và truyền bá văn hóa Hán tộc. Lời kêu gọi sĩ tử
không tham dự các kỳ thi Hán học hùng hồn nhất là
bài “Chí thành thông thánh thi”, do Phan Châu Trinh viết
và bài “Danh sơn lương ngọc phú” do
Trần Quý Cáp và Huỳnh Thúc Kháng cùng viết năm 1905
tại Quy Nhơn.
Thay thế chữ Hán, ông kêu gọi sử
dụng Quốc ngữ.
Quốc ngữ gồm 24 chữ cái trong mẫu tự
La-tinh, có thể dùng để lắp ghép tất
cả các từ ngữ trong tiếng Việt, nên rất
giản dị, dễ học, dễ viết, dễ sử
dụng, dễ truyền bá văn hóa,
tư tưởng,
khoa học kỹ thuật.
Tại Quảng Nam, Phan Châu Trinh cùng Trần Quý Cáp,
Huỳnh Thúc Kháng và các trí thức cấp tiến vận
động mở rất nhiều trường
dạy Quốc ngữ ngay từ năm
1904. Trường
Dục Thanh ở Phan Thiết và Đông Kinh
Nghĩa Thục
ở Hà Nội đều do Phan Châu Trinh vận
động thành lập. Bản thân Phan Châu Trinh
cũng làm thơ, viết văn, viết báo bằng Quốc
ngữ.
Cuộc vận động của Phan Châu
Trinh bắt đầu từ 1904, mà cho đến
năm 1919, Pháp mới bỏ các kỳ thi Hán học
và cho đến
gần cuối đời Phan Châu Trinh, chữ Quốc
ngữ mới được chính thức
phổ cập ở bậc tiểu học bằng
nghị định ngày 18-9-1924 của toàn quyền Martial
Merlin. Từ đây, Quốc
ngữ trở thành chữ viết chính thức của
người
Việt và cũng từ đây xuất hiện nền
văn học Quốc ngữ, những tác phẩm
văn chương, học thuật, nghiên cứu Việt Nam....
Về xã hội, Phan Châu Trinh kêu gọi bãi
bỏ những hủ tục trong văn hóa Hán tộc,
bỏ thói để tóc dài (búi tó) theo kiểu
người
Trung Quốc, bỏ quan niệm thứ tự xã hội theo
tứ
dân, sĩ nông công thương, mà kêu gọi mọi người cùng
nhau học những nghề kỹ thuật, học cách
thức buôn bán theo kiểu tây phương.
Về chính trị, Phan Châu Trinh đả kích
mạnh mẽ chế độ quân chủ “thiên tử”
từ Trung Quốc truyền sang.
Theo Phan Châu Trinh, chế độ quân chủ là
một chế độ nhân trị. Ông giải thích: “Nhân
trị nghĩa là cai trị một cách rộng rãi hay nghiêm
khắc, chỉ huy tùy theo lòng vui, buồn, thương, ghét của một ông vua mà thôi, pháp luật tuy có cũng như không.” Do đó, nếu đất
nước
may mắn gặp một ông vua anh hùng, thì đất
nước
hưng thịnh,
nhưng nếu
đất
nước
không may mắn, gặp một ông vua hôn ám, thì đất
nước
suy sụp. Nói cách khác, chế
độ quân chủ là một chế độ tùy hứng
cá nhân người cai trị.
Thay vào đó, Phan Châu Trinh đề
nghị thành lập chế độ dân chủ pháp
trị, có hiến pháp, có quốc hội, có tổng
thống và có quyền tư pháp độc
lập. Theo ông, trong chế
độ dân chủ pháp trị, “quyền lợi và bổn phận của mọi người trong nước đều có pháp luật chỉ
định rõ ràng, không khác gì là đã có đường
gạch sẵn, cứ
trong đường
ấy mà đi tự do, muốn
bước tới bao nhiêu cũng không ai ngăn cản, chỉ trừ khi nào xâm lấn
đến quyền lợi của
người khác
thì không được. Vì
đối với pháp luật thì mọi người
đều bình đẳng, không có ai là quan, ai là dân cả.” (Phan Châu
Trinh, “Quân trị chủ nghĩa và dân trị chủ
nghĩa”.)
Một khái niệm mới
được
Phan Châu Trinh đưa vào sinh hoạt chính trị
Việt
Nam vào đầu
thế kỷ 20 là ông đề
xướng
dân quyền. Theo ông, dân
quyền sẽ là đầu
tàu thúc đẩy
tất cả những cải cách chính trị, kể
cả việc đòi hỏi độc lập từ
tay người
Pháp vì " dân đã biết có
quyền thì việc khác có thể tính lần được."
Như thế, trong 1,000 năm
Bắc thuộc, tổ tiên chúng ta đã bị
Trung Quốc áp đạt nền văn hóa Hán tộc. Sau đó, tuy đất
nước
chúng ta độc lập về chính trị,
nhưng lại
lệ thuộc văn hóa Hán tộc vì trong gần một
ngàn năm độc lập, các triều đại quân
chủ chọn chữ Hán làm văn tự chính thức,
đưa vào chương trình học thuật các sách
vở Trung Quốc,và đã đào tạo
tầng lớp trí thức theo văn hóa Hán tộc. Lớp trí thức nầy
làm quan và điều hành xã hội cũng theo văn hóa Hán
tộc.
Cho đến khi nền
văn hóa Tây phương truyền vào nước
Việt, Phan Châu Trinh và các nhà trí thức cấp tiến
vào đầu
thế kỷ 20 mới thấy rõ nền văn hóa Hán
tộc là trở ngại chính cho sự tiến bộ
của dân tộc. Do đó,
các ông cương quyết kêu gọi từ bỏ chữ Hán,
chấm dứt ý thức hệ quân chủ, dứt khoát ly
khai với nền văn hóa Hán tộc, nhằm mở
hướng
đi mới, canh tân đất nước,
tiến lên chế độ dân chủ.
Cuộc ly khai văn hóa Hán tộc do Phan Châu
Trinh đề xướng là con
đường
thiết thực, mở rộng cánh cửa văn hóa cho
sự phát triển đất nước. Nếu không có cuộc mở
đường
của Phan Châu Trinh, một mặt giới thủ cựu
Việt Nam cố duy trì nền văn hóa Hán tộc nhằm
duy trì quyền lợi, một mặt người Pháp
tránh mở
mang văn hóa, làm cho Việt Nam chậm tiến, để dễ
bề thống trị, thì nước
Việt chúng ta vốn đã chậm tiến, tiếp
tục chậm tiến lâu ngày nữa. Có thể nói, quyết định ly khai văn
hóa Hán tộc, chấm dứt việc học chữ Hán, văn
hóa Hán, chế độ quân chủ kiểu Hán, đã lót đường
cho các phong trào văn hóa, văn học và chính trị
từ thời Phan Châu Trinh trở về sau.
Cần chú ý, ngày trước, tuy
các triều đình sự dụng chữ Hán làm chuyển
ngữ,
nhưng các triều đình hoàn toàn độc lập
với vua chúa Trung Quốc.
Ngày nay, chữ Hán không còn được
sử dụng, nước nhà tuy nói là hoàn
toàn độc
lập,
nhưng
giới lãnh đạo CSVN lại lệ thuộc nặng
nề nhà cầm quyền CS Trung Quốc, dâng đất
dâng biển cho CS Trung Quốc.
Nếu chữ Hán
vẫn còn được
sử dụng, thì mức độ lệ thuộc
chắc chắn còn mạnh mẽ nặng nề
hơn nữa.
Như thế mới thấy
viễn kiến sáng suốt của Phan Châu Trinh cách đây
một trăm năm, phải dứt khoát ly khai khỏi
văn hóa Hán tộc.
TRẦN GIA PHỤNG
(Cali, 27-03-2011)