Nỗi
Oan
Thùy
An
Có ai trong đời chưa
một lần bị hàm oan? Nỗi oan có thể chỉ thoáng qua, dễ làm ta quên
đi, nhưng cũng có những nỗi oan không hóa giải được, trĩu nặng vai
ta suốt cuộc đời.
Tôi có người chú làm
việc cho một hãng hàng không Pháp, thỉnh thoảng ông đem về nhà những
món ăn dành cho hành khách còn dư sau chuyến bay như xà lách, cà
chua, sữa tươi, bánh ngọt… Gần 60 năm qua, tôi vẫn còn nhớ những
miếng sandwich kẹp thịt gà thơm ngon tôi thường chia cho thằng em
họ, bắt nguồn cho nỗi oan đầu đời năm tôi khoảng 7, 8 tuổi. Người
xưa thường nói, khác máu tanh lòng quả không sai. Hai chị em tôi
cùng ông ngoại nhưng khác bà ngoại. Đương nhiên bà ngoại ghẻ phải
thương thằng em họ hơn tôi rồi. Thằng này bị bệnh suyển, kiêng thịt
gà nhưng tôi đâu biết, nên nết “thảo ăn” của mình bị biến thành “âm
mưu”. Đi đâu bà ngoại ghẻ cũng “tố” tôi: “Cái con nớ còn nhỏ mà ác,
nó muốn cho thằng em nó mau chết đây mà.” Chết đâu không thấy, bây
giờ thằng em đang là một đại gia ở Huế, con cháu đầy đàn.
Đi học, cũng không
tránh khỏi những hiểu lầm. Nhớ kỳ thi cá nguyệt năm đệ tứ, giờ Vật
Lý, nhỏ bạn ngồi bàn trên quay xuống hỏi: “Có phải đáp số là 20
Ampère không?” Tôi vừa gật đầu là nó đem bài lên nộp ngay. Tính tôi
cẩn thận, chờ đến phút chót mới nộp bài. Cho nên sau khi làm xong,
dò đi, dò lại nhiều lần mới phát hiện “cái bẫy” trong bài toán. Tôi
sửa lại đáp số, nhưng không giúp bạn được vì nó đã ra về. Tôi nghĩ
là tôi không có lỗi. Nhưng đáng tiếc là hầu hết các bạn tôi đều bị
sụp bẫy, điểm thi dưới
trung bình nên cùng đứng về phe nhỏ bạn kia, chì chiết, nguyền rủa
tôi không tiếc lời: “Mặt mày sáng sủa mà lòng dạ tối
thui.”
Tôi có nhỏ bạn khác,
quen qua lời giới thiệu của đứa bạn thân nhân dịp ra Huế chơi. Nhỏ
này rất đẹp, lại trùng tên với tôi, liên lạc thư từ một thời gian
thấy cũng hạp nên càng thích. Kỳ thi bán phần năm ấy, nó nộp đơn thi
tại Hội đồng Đà Nẵng, tôi mang số báo danh 1, nó số 2. Thật bất ngờ. “Ủa, sao mi
không thi ở Huế?” Nó nói không ngần ngại: “Tao muốn ngồi cạnh mi để
được mi giúp đỡ. Mi không ngại chớ?” Thật ra là tôi rất ngại nhưng
cũng miễn cưỡng gật đầu. Đề thi phát ra, tôi viết bao nhiêu, để hở
bài cho nó tha hồ chép bấy nhiêu… chữ được chữ mất, tam sao thất
bản. Copy cũng là một nghệ thuật! Sai lầm của nó là lười biếng,
không chịu học bài, nên không đoán được những nét chữ không rõ ràng
của tôi. Ví dụ tôi viết “phác hoa”, thì nó lại viết “pháo hoa”,
C2H5OH, thì nó viết C3H5OH… chẳn hạn… Kết quả: tôi đậu, nó rớt.
Trước khi trở về Huế, nó đến nhà chửi thẳng vào mặt tôi: “Đồ bần
tiện!”
Ra trường đi dạy, lại
bị học trò nghi oan. Không biết căn cứ vào đâu, các nữ sinh khẳng
định: “Cô bất công. Cô bênh học trò con trai, ghét học trò con gái.”
Kỳ quá, nghĩ hoài không ra. Đúng là oan Thị Kính! Bây giờ gặp lại,
các cô đã lên chức bà nội bà ngoại, nghe tôi nhắc đến chuyện xưa thì
chỉ biết cười giả lả: “Hồi đó tụi em còn con nít mà cô!”
Nhớ vào thời đất nước
“mở cửa”, khoảng 1990, 1991 gì đó, những người viết trước 75 bắt đầu
“lên hương”, sách được tái bản nhiều lần, bán đắt như tôm tươi. Thời
gian này, tôi được mời làm biên tập cho một tờ báo tư nhân nên cũng
bị vướng nhiều nỗi hàm oan. Công việc của tôi là gom bài, chọn bài,
sửa sang lại chút đỉnh rồi gửi cho nhà xuất bản duyệt để cấp giấy
phép in ấn. Dạo đó, tôi có rất nhiều cộng tác viên. Có em viết khá,
đã có chút tên tuổi, nhưng cũng có em mới tập tành làm thơ văn, tôi
phải góp ý nhiều để bài được hay hơn. Trong số đó có một em sáng tác
rất hăng say. Em viết không hay nhưng thấy em nhiệt tình quá nên tôi
cũng ráng chọn đăng cho em một bài. Nào ngờ, nhà xuất bản không
duyệt bài của em, phải gác lại, đây là việc ngoài tầm tay của tôi.
Vậy mà sau khi báo phát hành, tôi nhận được lá thư của em với lời lẽ
rất nặng nề, đại ý là : “Chị là người lớn mà không giữ lời, hứa một
đường làm một nẻo…”. Rồi vào một buổi trưa, tôi đang nhắm mắt nghỉ
ngơi, bỗng có cú điện thoại, giọng nói đằng đằng sát khí làm tôi
tỉnh hẳn: “Chị là đồ phù thủy …” tiếp theo là những danh từ không có
trong tự điển!!! Đại ý là tại sao tôi lại nói anh ta như vậy? Vừa
nhận ra giọng Quảng Nam của anh bạn nhà thơ
khá thân, chưa kịp ngạc nhiên, chưa kịp phân bua, thì đầu kia đã dập
ống nghe xuống cái “rụp” muốn điếc lỗ tai, để lại mình tôi với bao
thắc mắc. Ủa sao kỳ vậy, tôi đâu có nói gì! Suy nghĩ hoài chỉ nhức
đầu, tôi xem như không có người bạn này nữa. Chắc tại anh ta lầm tôi
với một ai đó đã nói xấu anh.
Và một nỗi oan đáng
nhớ nhất trong đời, đó là lần tôi giới thiệu người em cô cậu ruột
mua căn nhà gần nơi tôi ở. Xem nhà xong, anh ta nói: “Em sẽ bán nhà
ở Huế để mua nhà này.” Tôi khuyên: “Em phải bán nhà xong rồi mới mua
cho chắc.” Anh ta không nghe, cứ đặt cọc trước hai cây vàng để làm
giấy tờ. Nào ngờ, căn nhà ở Huế không bán được, anh ta gọi điện vào:
“Chị lấy lại cọc cho em, có được không?” “Dĩ nhiên là không được
rồi.” “Hay là chị cố gắng lấy lại vài chỉ cũng được.” “Chị chịu
thua.” Anh ta là nhà báo, phải biết rõ luật mua bán nhà hơn ai hết,
không mua là mất tiền cọc, không bán là đền tiền cọc gấp đôi. Vậy mà
anh ta không chịu hiểu, nghĩ là tôi về phe với chủ nhà, thêm vào đó,
giá vàng nhảy vọt như ngựa phi, tỉ lệ thuận với sự tiếc của, giận
dữ, nghi ngờ… nên chấm dứt tình chị em.
Chuyện xưa tích cũ
cũng ghi chép lại rất nhiều nỗi oan, được viết thành thơ, thành
nhạc. Đến bây giờ tôi vẫn còn giữ bản nhạc Thiếu Phụ Nam Xương của
Thẩm Oánh, bìa vẽ hình một phụ nữ bế đứa bé đứng bên ngọn đèn dầu,
bóng hai mẹ con in trên vách tường lung linh… lời hát kể rằng, người
phụ nữ ấy có chồng đi chinh chiến, từng đêm ôm con vò võ đợi chờ. Có
lần đứa bé hỏi: “Mẹ ơi cha con đâu?”, người mẹ chỉ chiếc bóng trên
tường: “Cha con đấy.”. Sau đó, người cha trở về, đứa bé không nhận
cha: “Không không bóng cha
đêm tối mới về…” Người cha nghi ngờ lòng chung thủy của vợ và
người vợ phải trầm mình để giải tỏa nỗi oan… Ôi đau thương, ôi nghi oan,
chua xót cho nhau đau đớn cho nhau chim uyên lìa đàn… Hồi nhỏ,
tôi rất tâm đắc câu hát này, lớn lên, nghĩ lại thấy buồn cười. Nếp
nghĩ của người xưa thật là ấu trĩ, chỉ cần chờ đêm xuống soi bóng
người lên vách là sự thật phơi bày, cần gì phải bỏ chồng bỏ con ra
đi lãng nhách như vậy.
Không nhớ tôi có đọc
trong một cuốn sách nào đó, lời nói của một vị chân tu: “Hãy coi hàm
oan như một lời chúc tụng.” Thật khó mà coi nỗi hàm oan như lời chúc
tụng, nhưng nếu ta không nghĩ đến nữa thì sẽ nhẹ lòng hơn. Cứ xem
cuộc đời là sân khấu mà số phận mỗi con người là một kịch bản đầy
màu sắc, rồi khi tấm màn nhung khép lại… tất cả những vui buồn,
thương ghét, oan ức, thù hận… chỉ là cơn gió thoảng qua.
Sáng nay lang thang
trên mạng, tìm thấy bài viết của thầy Thích Trí Quảng nói về “Nỗi
Oan” rất hay, xin mượn một đoạn để kết bài viết
này
Tất cả chúng ta sống
trên cuộc đời này, ai cũng có nỗi lo, nỗi khổ, nhất là cảm giác bị
oan ức là nỗi khổ lớn. Oan ức là những điều mình cảm thấy ức lòng,
đau khổ. Muốn giải tỏa nỗi oan ức này, chúng ta làm cách
nào? Luận Bảo Vương Tam muội dạy rằng oan ức không cần biện minh,
vì càng biện minh thì nỗi hàm oan càng lớn. Lời dạy này hơi khó
hiểu. Đa số chúng ta tin rằng mình có thể giải tỏa được oan ức;
nhưng sự thật càng giải, nỗi hàm oan càng tăng trưởng mà tôi có cảm
giác như chiếc vòng số 8, nếu càng vùng vẫy thì càng siết chặt lại,
thà cứ để yên chúng ta sẽ thấy nhẹ nhàng hơn và làm sao tay chúng ta
tự nhỏ lại để rút tay ra khỏi cái còng, hay ngược lại, làm sao cái
còng mở ra được. Làm tay mình thu nhỏ lại chắc chắn là rất khó, hoặc
làm chiếc còng mở ra được cũng không dễ; nhưng chỉ có hai cách này
mà thôi.
Thùy An ( tháng
1–2011)
|