NHẠC SĨ NHẬT NGÂN VÀ HỒN
NƯỚC
Đỗ Thái Nhiên
Thông thường, quan hệ giữa chữ
và nghĩa là quan hệ thống nhất. Chữ nào thì nghĩa đó. Tuy
nhiên trong một số trường hợp đặc
biệt, chữ và nghĩa lại rơi vào tình huống tuy
gần mà xa, tuy xa nhưng cũng rất gần. Mỗi lần phải đối diện với
trạng thái xa xa gần gần vừa kể, con
người tỏ ra vô cùng bối rối trong việc
sử dụng ngôn ngữ để trao đổi tư
tưởng. Người phương Tây giải
quyết bối rối kia bằng
kiểu nói xoáy vào trọng tâm của sự việc: nói duy
lý. Thế nhưng duy lý làm cho nghĩa của
chữ trở nên khô cứng và bó hẹp. Người
phương Đông giải quyết bối rối kia bằng kiểu nói tượng. Nói
tượng là phương pháp diễn đạt tư
tưởng không bằng một số ngôn từ trực
tiếp mà bằng cả một câu chuyện, một dòng âm
thanh, một chuỗi màu sắc... “Người nghe”
tiếp nhận những vui buồn trong câu chuyện,
những nhanh chậm trong âm thanh, những sáng tối trong
màu sắc... sẽ cảm nghiệm được
những gì “người nói” muốn phô diễn. Ở vào trường hợp nói tượng
được du nhập vào thế giới ca nhạc,
chúng ta có những bài hát tượng. Bây
giờ, kính mời bạn đọc thưởng thức
một bài hát tượng của nhạc sĩ Nhật
Ngân.
I.- Hát tượng.
Yêu quê hương là tình cảm tự nhiên
của mỗi người. Sau thời
gian sống ly hương, không ai không muốn quay về.
Quay về để thăm lại bè bạn cũ,
người yêu xưa. Quay về để
được đi đứng cười nói trong
một thành phố đầy ắp kỷ niệm
tuổi học trò. Thế nhưng, đối với
Nhật Ngân, ngày nay trên quê hương Việt Nam, “... em
ở xa quá xa... bạn trôi nổi khắp nơi... đâu
còn ai nơi đó...” :
“Vẫn biết em ở xa quá xa, vẫn biết em
chẳng còn nơi đó, nhưng sao tôi vẫn muốn quay
về thăm Đà Nẵng một thời yêu
thương.
Vẫn biết bạn nổi trôi khắp nơi, vẫn
biết đâu còn ai nơi đó, nhưng sao tôi vẫn
muốn quay về, thăm thành phố một trời yêu
thương.
Ôi Đà Nẵng, Đà Nẵng của tôi ơi! Nơi cho tôi những mơ mộng đầu
đời. Nơi cho tôi hạnh phúc tình lên ngôi, Phan
Châu Trinh đón đưa chiều tan trường, ai
nỡ đành vội vàng sang sông.
Ôi Đà Nẵng, Đà Nẵng của tôi ơi, mưa
rơi rơi ướt bao chiều kỷ niệm, em
thơ ngây Hồng Đức của tôi ơi! Đôi môi
xinh biết bây giờ phương nào, nay có còn nụ
cười năm xưa?
Tuy cách xa mà đâu thấy xa, trong trái tim
tình tôi vẫn đó, nơi phương xa tôi vẫn mơ
về, ôi Đà Nẵng một trời yêu thương.”
(Vẫn
Mơ Về Đà Nẳng. Nhạc và lời: Nhật Ngân)
II.- Gỉai thích tượng.
Như vậy, quay về chỉ là quay
về với quê hương trống rỗng. Do
đâu quê hương trở thành trống rỗng? Trả lời câu hỏi vừa nêu chúng ta không
thể không nhắc tới những vết hằn của
xã hội Việt Nam cuối thế kỷ 20, đầu
thế kỷ 21. Những vết hằn kia là tác hại của hai đại họa.
_ Đại họa kinh tế:
Từ 1975* đến 1990 do
chính sách cai trị hà khắc và nghèo nàn văn hóa,
đảng CSViệt Nam đã đẩy kinh tế
Việt Nam xuống đáy của nghèo đói. Kinh tế
Việt Nam trong giai đoạn này có tên là “kinh tế bo bo”. Bo bo thay lúa gạo là
sự kiện đương nhiên và bình thường. Chén
cơm trắng xuất hiện trên bàn ăn
là sự kiện bất bình thường, là dấu
hiệu của tư sản, có thể bị “đảng”
đánh.
Từ 1990 cho đến ngày nay
(2012), CSViệt Nam quyết định từ bỏ kinh
tế CS, chạy theo kinh tế thị
trường. Nhờ vậy kinh tế
Việt Nam được quốc tế nhìn nhận là
“phát triển với tốc độ cao”.
Tuy nhiên, mức
độ thịnh suy của một nền kinh tế không
thể được xác định một cách đơn
giản bằng những con số trên giấy tờ.
Muốn biết kinh tế của một quốc gia
thịnh hay suy, “người quan sát” phải nhìn vào cái áo
người dân mặc, chén cơm người dân ăn, nhà
thương người dân chữa bệnh, trường
học người dân thọ giáo. Người dân ở
đây phải là nông dân: 90% dân số Việt Nam theo nghề nông. Những điều “nhìn vào”
vừa nêu xác nhận: Việt Nam là một trong những
quốc gia nghèo nhất thế giới. Lợi nhuận có
được do kinh tế phát triển đều trở
thành tài sản riêng của “đảng tư sản
đỏ”. Người dân vẫn tiếp
tục nghèo đói, tiếp tục ngụp lặn trong
đại họa kinh tế.
_ Đại họa văn hóa: từ 1975* đến
1990, CSViệt Nam tôn xưng văn hóa Marx Lenine là “văn hóa
mới”. Nhà cầm quyền Hà Nội
triệt tiêu văn hóa dân tộc, buộc văn hóa dân
tộc phải nhường ngôi cho “văn hóa mới”.
Hàng triệu người dân không ai
được tự xưng là hoặc được
gọi là “Bác”. Chỉ có ông Hồ
mới là “Bác”. Chú công an 18 tuổi nói chuyện
với ông cụ 80 tuổi, vẫn xưng “anh anh tôi
tôi” một cách rất “văn minh” Mọi nghi thức
thờ tự, cúng giỗ đều bị đồng hóa
với mê tín dị đoan. Đám cưới gọi là
“lễ tuyên hôn” do đảng chủ trì, cha mẹ đôi
bên có mặt hay vắng mặt không thành vấn đề.
Văn học nghệ thuật của miền Nam
trước 1975 bị kết án là
đồi trụy. CSViệt Nam tìm đủ mọi
phương cách giúp cho văn học nghệ thuật
của “văn hóa mới” được mở rộng và
bay cao với điều kiện là những cao và rộng
kia không được phép vượt ra ngoài cái lồng chim
của tư tưởng “Như có Bác Hồ trong ngày vui
giải phóng”! “Văn hóa mới” dành hai chữ lao động cho riêng những người
đốn gỗ trên rừng, đào đất ngoài
ruộng. Nhóm chữ “lao động
trí thức” chỉ là một thuật ngữ rỗng
tuếch, vô nghĩa. Vì vậy, đối với giới
văn nghệ sĩ, CSViệt Nam tùy nghi: nay quyết trói,
mai cởi trói. Giữa trói và không trói là tiếng thơ
nửa như bông đùa, nửa như phẩn hận:
“Đù mẹ cây bông!
Mày không lao động !
Đéo cho mày trổ bông!”
( Thơ Nguyễn Đức Sơn - Sao
Trên Rừng )
Đầu thập niên 1990 do nhu cầu phải đầu
hàng kinh tế thị trường tự do để
sống còn, CSViệt Nam không còn nói tới “văn hóa
mới” nữa. Thay vì trở về với văn hóa dân
tộc, đạo đức dân tộc, CSViệt Nam
đã di chuyển từ “văn hóa mới” qua “văn hóa
cướp nhà, cướp đất của nhân dân”,
“văn hóa bằng giả”, “văn hóa tham ô, nhũng lạm
đằng sau tấm bảng bí mật quốc gia”,
“văn hóa lường gạt là khôn ngoan, lương
hảo là dại khờ”...
Đại họa kinh tế và đại
họa văn hóa đã làm cho đời sống nhân dân
trở nên cực kỳ nghèo khó. Nghèo
cơm áo. Nghèo đạo đức.
Nghèo tình người. Nghèo tự do dân
chủ. Người đời thường
nói “đồng thanh tương ứng, đồng khí
tương cầu” nhưng “đồng nghèo triệt
để và toàn diện” kiểu nhân dân Việt Nam ngày nay,
quê hương trở nên trống rỗng, con người
trở nên vô cảm. Thế nào là vô
cảm? Bùi Giáng diễn tả thế giới vô
cảm bằng hai câu thơ, lời lẽ rất nhẹ
nhàng nhưng hàm chứa cả một tâm tình tan nát
trước cảnh “người Việt đói” quay
lưng lại với “người Việt rách”
:
“Những tưởng đầu đường
thương xó chợ,
Ai ngờ xó chợ chẳng thương
nhau.”
(Bùi Giáng)
Không muốn nghĩ tới nỗi buồn xó chợ,
Nhật Ngân cất tiếng hát:
“Vẫn biết em ở xa quá xa, vẫn biết em
chẳng còn nơi đó...
... Vẫn biết bạn nổi trôi khắp nơi,
vẫn biết đâu còn ai nơi đó...”
Tại sao biết trước là “quay về” sẽ
phải đối diện với cô đơn nhưng
Nhật Ngân vẫn quyết tâm quay về? Đi
tìm nguyên nhân “quay về” tức là đi tìm mối quan
hệ giữa quê hương và cá nhân của mỗi
người dân. Quê hương là một thực
thể được ra đời do sự kết
hợp của ba thành tố:
_ Thành tố tự nhiên của quê hương bao gồm:
đất, nước, núi, sông, mưa nắng, lúa gạo,
hoa quả...
_ Thành tố tư tưởng của quê hương hàm
chứa bên trong hình tượng Rồng Tiên, đạo
đức truyền thống, ca dao, tục ngữ, phong
tục tập quán, lịch sử dựng nước và
giữ nước...
_ Thành tố xã hội của quê hương thể
hiện bằng đường xá, cầu cống, phố
thị, quan hệ giữa nhà cầm quyền và quần
chúng, tinh thần xã thôn tự trị, ý thức về công
lý, tính linh động trong ngôn ngữ, phong cách pha chế
ẩm thực...
Ba thành tố nêu trên thường hằng
quấn quyện vào nhau cả về tinh thần lẩn
thể chất, nương vào nhau để cùng tồn
tại, nương vào nhau để tạo thành quê
hương Việt Nam. Từ tổ
tiên, ông bà, cha mẹ đến cá nhân mỗi chúng ta không ai
là không được sanh ra, được nuôi
dưỡng và giáo dục bởi ba thành tố tạo thành
quê hương. Mỗi người là
một tổng hợp của tự nhiên, tư
tưởng, xã hội. Mỗi
người là một chi thể của quê hương
lớn. Mỗi người là một quê
hương nhỏ. Quan hệ giữa
quê hương lớn và quê hương nhỏ là quan hệ
song phương xoay chiều trên cả hai mặt tâm
hồn lẫn thể xác. Sự thể này giải
thích sức cuốn hút của quê mẹ đối với
con dân. Sức cuốn hút kia chính là
Hồn Nước. Hồn nước là cội nguồn
tâm lý của thái độ quay về. Hồn Nước là
gốc rễ của cảm hứng để Nhật Ngân
chuyển thành lời nhạc:
“Tuy cách xa mà đâu thấy xa.
Trong trái tim tình tôi vẫn đó...”
(Vẫn
Mơ Về Đà Nẵng - Nhật Ngân)
“Tuy cách xa mà đâu thấy xa”, tuy nhiên, quay về
với quê mẹ, lòng vẫn thấy ấm
hơn. Thế nhưng lòng chưa kịp ấm, tim đã đau nhói trước tình huống
“xó chợ chẳng thương nhau”. Nhật Ngân đã
tự chữa bệnh nhức tim do tác
động của vô cảm bằng cách mơ về
một quá khứ xa xăm, trong đó tình người, tình
đồng bào xôn xao cùng với nắng ấm:
“Ôi Đà Nẵng, Đà Nẵng của tôi ơi! nơi cho tôi những mơ mộng
đầu đời. Nơi cho tôi hạnh
phúc tình lên ngôi. Phan Châu Trinh đón đưa chiều
tan trường, ai nỡ đành vội vàng sang sông.
Ôi Đà Nẵng, Đà Nẵng của tôi ơi, mưa
rơi rơi ướt bao chiều kỷ niệm, em
thơ ngây Hồng Đức của tôi ơi! đôi môi xinh biết bây giờ phương
nào, nay có còn nụ cười năm xưa?”
( Vẫn Mơ Về Đà Nẵng _ Nhật
Ngân )
Quá khứ là “nụ cười năm
xưa”. Hiện tại là đôi mắt
vô cảm ở “xó chợ”. Vậy thì
tương lai sẽ đi về đâu? Chân lý
hằng cửu đã khẳng định:Tĩnh
là ổn định. Động là bất
ổn định. Động bao
giờ cũng tìm về tĩnh. Giông bão
bao giờ cũng trở về với mưa thuận gió
hòa. Vô cảm sẽ phải tìm lại
tin yêu. Tin yêu chỉ có thể nẩy
mầm và phát triển trên miếng đất công bằng
và ổn định. Biến tư tưởng công
bằng và ổn định thành sinh hoạt hiện
thực của xã hội chính là nổ lực làm cho tự
do dân chủ phải thăng hoa trên quê mẹ. Hồn nước hối thúc muôn dân về
với quê mẹ không phải chỉ để muôn dân nhìn
nhau trong vô cảm. Do đó, trong tận cùng của tâm
tình “quay về” là ươc mơ nồng
cháy dành cho một Việt Nam tự do dân chủ. Đó
là trọn vẹn nội dung tinh tế mà nhạc sĩ
Nhật Ngân muốn bộc bạch bằng kiểu hát
tượng trong câu chuyện “Vẫn Mơ Về Đà
Nẵng” vậy.
Đỗ Thái Nhiên
* GHI CHÚ: Bài viết này chọn thời điểm 1975 vì
đây là mốc thời gian ghi nhận CSViệt Nam
thống trị toàn lãnh thổ Việt Nam. Tội
ác của CSViệt Nam khởi đi từ 1945 chứ không
phải 1975.