Nhân Quyền và Cơ Cấu của Hạnh Phúc
Đỗ
Thái Nhiên Hạnh phúc là gì?
Nói tới hạnh phúc, người ta thường nghĩ tới nhóm chữ: Độc Lập, Tự
Do, Hạnh Phúc. Ba thuật ngữ vừa kể là ba mặt của một khối tam giác
đều. Thiếu đi một mặt, khối tam giác biến mất.
Độc lập là lời khẳng định: "Xin đừng ai
chạm tới tôi”. Để thể hiện độc lập, con người cần tự do, muốn
làm gì thì làm. Độc lâp và tự do là đôi cánh của hạnh phúc. Tuy
nhiên, hạnh phúc là hạnh phúc trong xã hội và với xã hội.
Không có xã hội, không thể có hạnh phúc. Vì vậy hạnh phúc của một
người phải “hợp tấu” với hạnh phúc của muôn người. Đó là “mạng lưới”
của hạnh phúc. Thế nào là cơ cấu của hạnh
phúc? Nhằm giúp cho ý niệm “cơ cấu của
hạnh phúc” trở nên cụ thể và dễ hiểu, trước tiên, chúng ta hãy nghĩ
tới cơ cấu của mạng lưới giao thông trên các xa lộ. Muốn cho mạng
lưới này được vận hành ổn định: 1) Đường xá, cầu cống phải kiến
tạo vững chắc và an toàn. 2) Luật lệ giao thông cần qui định với
những tiên liệu đầy đủ chi tiết, hợp lý và nghiêm minh. 3) Tài xế
lái xe đủ sức khoẻ, có bằng lái xe hợp pháp. 4) Các loại xe lăn bánh
trên xa lộ cần đạt mức toàn hảo về mặt cơ khí. Bốn thành tố vừa nêu
tạo thành cơ cấu của mạng lưới giao thông. Bây giờ hãy nói tới
cơ cấu của hạnh phúc. Không thể có
loại hạnh phúc của cá nhân sống đơn độc trên núi lạnh, trong rừng
sâu. Đời người chỉ ổn định chừng nào hạnh phúc cá nhân và hạnh phúc
xã hội thường hằng giao thoa nhưng cũng thường hằng không va chạm,
không xâm lấn lẫn nhau. Làm thế nào có được hai cái “thường hằng”
kia? Trả lời câu hỏi này, con người đứng trước bức tranh cơ cấu của
hạnh phúc. Mạng lưới hạnh phúc là mối liên hệ song phương và xoay
chiều giữa hạnh phúc cá nhân và hạnh phúc xã hội nhìn một cách tổng
quát. Đó là tranh sơ phác của hạnh phúc. Chi tiết hoá tranh sơ phác
để nhận ra những cơ phận tinh vi giúp cho hạnh phúc cá nhân và hạnh
phúc xã hội có khả năng hợp tấu. Đó là tranh chân dung của hạnh
phúc, còn gọi là cơ cấu của hạnh phúc. Bảo vệ sự ổn định cho cơ cấu
của hạnh phúc là đối tượng tối cao mà vận động của xã hội nhằm đạt
tới. Muốn vậy, xã hội phải nhờ tới bàn tay của luật pháp: “ở đâu có
xã hội, ở đó có luật pháp”. Luật pháp là công cụ duy nhất hữu
hiệu trong việc điều hành dòng sống của xã hội, điều hành cơ cấu của
hạnh phúc. Trước khi có luật pháp, xã hội
loài người đã có tâm lý yêu chuộng công bằng và lẽ phải, đã có phong
tục, tập quán. Như vậy, phong tục tập quán là hình chụp cơ cấu
của hạnh phúc. Một cách căn bản nhất, luật pháp chính là phong tục
tập quán được pháp lý hoá. Nhìn thực trạng xã hội, con người hình
dung được luật pháp. Ngược lại, đọc luật pháp, con người thấy được
thực trạng xã hội. Năm 1993 tại Vienna, Aó quốc, 170 quốc gia cùng
với 1000 tổ chức phi chính phủ (NGO) đã cùng nhau biểu quyết: luật
quốc tế nhân quyền bao gồm Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền 1948 và hai
Công ước Quốc Tế Nhân Quyền về Dân Sự-Chính Trị và về Kinh Tế-Xã Hội
1966. Bài viết này xin chọn Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền 1948 như
một văn kiện nhân quyền căn bản để đặt câu hỏi: Bằng cách nào luật
quốc tế nhân quyền tổ chức và điều hành cơ cấu của hạnh phúc cho
từng cá nhân và cho toàn xã hội? Luật quốc
tế nhân quyền bao gồm 30 (ba mươi) điều khoản đã truyền đi hai loại
mệnh lệnh: lệnh cấm làm và lệnh buộc phải làm. Mặt khác, khi tuyên
xưng Quyền sống tự do và bình đẳng của con người (điều 1), Tuyên
Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền mặc nhiên đòi hỏi mỗi người có Nghĩa Vụ phải
tôn trọng quyền sống tự do và bình đẳng của những người chung quanh.
Với “nội dung kép” như vừa trình bày, mặc dầu mang tên gọi là Tuyên
Ngôn Nhân Quyền nhưng trong thực chất, văn kiện pháp lý này có hàm ý
đồng loạt minh xác nghĩa-vụ-làm-người và quyền-làm-người.
Với văn thức hai loại mệnh lệnh, với nội
dung kép, với sự đồng thuận mạnh mẽ của Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc,
Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền 1948 đã nêu bật bốn thành tố sau đây
trong bức tranh cơ cấu của hạnh phúc:
1) Nghĩa vụ làm người: Đã là con
người, một cách bẩm sinh, ai cũng muốn thực thi nghĩa vụ làm người,
đó là sự thể hiện nhân cách. Vì vậy điều (1) Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân
Quyền (TNQTNQ) xác định: “ Mọi người sinh ra tự do và bình đẳng
về phẩm cách và quyền lợi, có lý trí và lương tri và phải đối xử với
nhau trong tình bác ái”. Phẩm cách của con người chẳng là gì
khác hơn là nỗ lực liên tục và bền bỉ thượng tôn nhân tính của chính
mình và của những người chung quanh. Thông qua lý luận của triết
học chọn con người làm tiền đề và nhất là thông qua những ghi
nhận thực tại đời người lấy ra từ Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền,
nhân tính gồm bốn yếu tính: -Tính thứ nhất là
tính xây dựng và sống với gia đình. Nam nữ trung thành
song phương và bình đẳng trên mọi lãnh vực của đời sống. Điều
(16) TNQTNQ: “ (a) Đến tuổi thành hôn, thanh niên nam nữ có quyền
kết hôn và lập gia đình mà không bị ngăn cấm vì lý do chủng tộc,
quốc tịch hay tôn giáo. Họ có quyền bình đẳng khi kết hôn, trong
thời gian hôn thú cũng như khi ly hôn. (b) Hôn thú chỉ có giá trị
nếu có sự thuận tình hoàn toàn tự do của những người kết hôn. c) Gia
đình là đơn vị tự nhiên và căn bản của xã hội và phải được xã hội và
quốc gia bảo vệ.” -Tính thứ hai là
tính tự vệ: Khi quyền sống bị xâm phạm, con người không được
phép tự ý sử dụng bạo lực để trả đủa. Mọi tranh chấp phải giải quyết
bằng thương nghị hoà bình hoặc nhờ sự phân xử của toà án.
Điều (8): “ Ai cũng có quyền yêu cầu toà án quốc gia có thẩm
quyền can thiệp chống lại những hành động vi phạm những quyền căn
bản được hiến pháp và luật pháp thừa
nhận” -Tính thứ ba là tính thoả mãn
nhu yếu: Mỗi người phải tôn trọng quyền bình đẳng về cơ
hội ( không bị chèn ép, không bị đối xử bất công) trong hoạt
động kinh tế của mọi người. Điều (22): “ Với tư cách là một thành
viên của xã hội, ai cũng có quyền hưởng an sinh xã hội, cũng như có
quyền đòi được hưởng những quyền kinh tế, xã hội và văn hoá cần
thiết cho nhân phẩm và sự tự do phát huy cá nhân của mình, nhờ những
nỗ lực quốc gia, sự hợp tác quốc tế, và theo cách tổ chức cùng tài
nguyên của quốc gia.” -Tính thứ tư
là tính xã hội: Cá nhân hưởng những tiện ích do xã hội cung ứng.
Đáp lại cá nhân có nghĩa vụ hợp tác với xã hội để xây dựng và
phát triển xã hội. Điều (21):
“ (a) Ai cũng có quyền tham gia chính quyền của quốc gia mình, hoặc
trực tiếp hoặc do các đại biểu do mình tự do lựa chọn.(b) Ai cũng có
quyền bình đẳng tham gia công vụ trong
nước.” 2) Quyền làm
người. Cha mẹ có nghĩa vụ nuôi dạy con
cái, đương nhiên cha mẹ có quyền quở phạt con cái. Quyền là công cụ
giúp con người thực thi nghĩa vụ. Quyền và nghĩa vụ là hai mặt của
một bàn tay. Như đã trình bày ở trên, nghĩa vụ làm người có tính bẩm
sinh, ai cũng như ai. Vì vậy, không phân biệt chủng tộc, màu da,
tuổi tác, giới tính, tôn giáo, chính kiến… mọi người đều có quyền
làm người như nhau. Tuy nhiên, chế độ độc tài các loại do âm mưu
toàn trị để dễ bề tham ô đã viện dẫn các lý do khác nhau nhằm thủ
tiêu nhân quyền của người dân. Lý do rằng: Mỗi dân tộc có một nền
văn hoá riêng, cần được giải thích nhân quyền theo nghĩa riêng và
rằng tuyên ngôn quốc tế nhân quyền là sản phẩm tư tưởng của các nước
phương Tây, nó có tính đề cao cá nhân chủ nghĩa, điều này không phù
hợp với công việc tổ chức và điều hành xã hội phương Đông. Dĩ nhiên
các luận điểm vừa nêu hoàn toàn vô căn cứ, không có dẫn chứng cụ thể
và khoa học. Xin chớ quên rằng: thủ tiêu
quyền làm người đồng nghĩa với hành động ngăn cản con người thực thi
nghĩa vụ làm người, nghĩa vụ thượng tôn nhân tính. Sự thể này sẽ
nhanh chóng biến quan hệ giữa con người với con người trở thành quan
hệ giữa động vật này với động vật kia, quan hệ mạnh được yếu thua,
quan hệ “mắt đổi mắt, răng đổi răng”. Lúc bấy giờ nhà cầm quyền độc
tài sẽ viện lý do dân trí thấp, lý do “an ninh trật tự công cộng là
nhu cầu sống còn của xã hội” để biến xã hội loài người thành một
chuồng động vật đặt dưới quyền khống chế cực kỳ hà khắc của guồng
máy công an trị. 3)Văn hoá nhân
văn. Trong trường hợp nhân quyền được
tôn trọng toàn phần, nhân tính được thượng tôn: gia đình hạnh phúc,
kinh tế vận hành trên nguyên tắc bình đẳng cơ hội, mọi va chạm đều
được giải quyết trong thương nghị hoà bình, cá nhân hợp tác hoà hài
với xã hội. Do nhân tính được thượng tôn, do lòng thương yêu và tôn
kính lẫn nhau, người dân tự giác tôn trọng luật pháp của quốc gia.
An ninh trật tự xã hội được vận hành trên tinh thần tự giác của
người dân là chân ý nghĩa của thiên hạ thái bình. Xã hội thái bình
là môi trường cần yếu giúp văn hoá nhân văn thăng hoa.
4) Dân chủ nhân
quyền. Nghĩa vụ làm người là nghĩa vụ
bẩm sinh của người dân. Nhân quyền vừa là quyền bẩm sinh của người
dân vừa là công cụ giúp người dân thực thi nghĩa vụ làm người. Văn
hoá nhân văn thăng hoa là công trình được vươn lên từ tim óc của
người dân. Do ba sự kiện “của người dân” vừa nêu, chế độ chính trị
điều hành đời sống của quốc gia hiển nhiên phải là chế độ do dân làm
chủ. Dân chủ ở đây chắc chắn không là “ dân chủ tập trung”
kiểu Cộng Sản, dân chủ “đảng cử, dân bầu”. Dân chủ ở đây là dân chủ
tam quyền phân lập, trong đó mọi thao tác dân chủ đều được giải
thích minh bạch thông qua sự viện dẫn nghiêm chỉnh từng điều khoản
của bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền ngày 10/12/1948. Điều (21)
khoản (c) TNQTNQ minh xác: “Ý nguyện của quốc dân phải được coi
là căn bản của mọi quyền lực quốc gia, ý nguyện này phải được biểu
lộ qua những cuộc tuyển cử có định kỳ và trung thực, theo phương
pháp phổ thông đầu phiếu kín, hay theo các thủ tục tuyển cử tự do
tương tự”. Điều 21, khoản (c) vừa
trích dẫn: dân chủ đích thực là phương pháp luận của nhân quyền. Dân
chủ biến tư tưởng nhân quyền thành hành động sống cụ thể. Không có
dân chủ, không thể có nhân quyền.
Kết luận. Nhân quyền không hề là
một tài liệu đề cao cá nhân chủ nghĩa. Nhân quyền là sản phẩm tư
tưởng được hợp soạn và/hoặc được nhìn nhận bởi toàn bộ xã hội quốc
tế văn minh. Nhân quyền không mảy may gây tác hại cho an ninh trật
tự xã hội như các chế độ độc tài xuyên tạc. Ngược lại chính nhân
quyền đã sản sinh ra môi trường an ninh trật tự tự giác bằng cách
cung cấp cho xã hội lớp người thượng tôn nhân tính, lớp người tự
giác. Kỷ luật hoàn toàn dựa vào sự canh chừng của cảnh sát là loại
kỷ luật của những xã hội chưa trưởng thành. Xã hội vận hành trong
trật tự không vì tâm lý khiếp sợ công an và toà án mà vì tính tự
giác của con người, đó là xã hội văn minh thượng đẳng.
Mãi cho tới đầu thế kỷ 21 nhân
quyền vẫn chỉ là ước mơ chưa thành của loài người. Tuy nhiên, nhân
quyền không thể đơn phương vận động và phát triển. Nhân quyền
phải gắn bó chặt chẽ với một hạch tâm gồm bốn “điện tử”: nghĩa vụ
làm người + quyền làm người + văn hoá nhân văn + dân chủ nhân
quyền. Nhân của hạch tâm là hạnh phúc của con người. Bốn điện tử
kia không điện tử nào được xem là lãnh đạo . Không điện tử nào có
khả năng tồn tại bên ngoài hạch tâm. Cả bốn điện tử đều phải hổ
tương tác động để cùng nhau vận động và phát triển, cùng nhau lấy
hạnh phúc của đời người làm đối tượng để phục vụ. Hạch tâm vừa mô tả
được gọi là cơ cấu của hạnh phúc. Có thấy được và hiểu được cơ cấu
của hạnh phúc, con người mới có cơ hội và khả năng để cùng nhau thực
hiện giấc mơ hạnh phúc: hạnh phúc cho xã hội và cho chính
mình. Ý chí biến giấc mơ hạnh phúc trở thành hiện tượng sống cụ thể
của đời người chính là lời chúc hạnh phúc mà bài viết này xin trân
trọng kính gửi tới mỗi Quý Độc Giả nhân dịp kỷ niệm ngày Quốc Tế
Nhân Quyền 10/12/2012 ./. Đỗ Thái
Nhiên
|