NGƯỜI VIỆT Ở ÐỨC
Nguyễn Quý Đại
Người
Việt đến Ðức với nhiều hoàn cảnh khác
nhau: du học (thời VNCH trước 1972), nạn nhân
chiến cuộc (trước 1975), thuyền nhân (boat people
từ năm 1978) cuối cùng là khách thợ (lao
động) họ đến từ các nước Ðông Âu
(từ ngày 9.11.1989). Nước Ðức từng bị chia đôi
(1949-1990) như Việt Nam (1954-1975), nên họ dễ dàng
mở rộng vòng tay nhân ái để đón nhận
người Việt tỵ nạn.
Ðệ Nhị Thế
Chiến:
Adolf Hitler sinh ở Braunau an Inn Áo
(1889-†1945). Mùa xuân 1913 Hitler bỏ thủ đô Wien
đến sống ở Đức. Lúc này Hitler
được 24 tuổi không thể trở thành một
họa sĩ, hoặc một nhà kiến trúc. Dưới
con mắt của mọi người, ông chẳng là gì
cả mà chỉ là một gã lông bông, không có bạn bè, không
công ăn việc làm, không có mái ấm gia đình. Tuy nhiên ông
có một thứ: đó lòng tự tin không gì dập tắt
được và một ý thức về sứ mệnh
nung nấu trong tim. Cố gắng tranh đấu với đời
vượt qua những thất bại, cướp được thời cơ. Đến
lúc ông làm chủ tịch Đảng Công nhân Đức
Quốc Xã/Nationalsozialistische Deutsche Arbeiterpartei, viết
tắt NSDAP. Được
sự ủng hộ đa số phiếu của phái
bảo thủ lên cầm quyền từ năm 1933. Làm Thủ tướng Đức (1934-1945)." Führer und
Reichskanzler/head of state“ Là người
thâu tóm quyền hành Đức Quốc Xã. (Nguyên nhân
xảy ra Đẹ nhị thế chiến, một
phần do Hoà ước Versailles năm 1919, trích phần
cuối bài).
Hình
trên: lò đốt người của Hitler ở
Dachau gần Munich
Hitler là tội phạm gây ra Đệ
nhị thế chiến, từ năm 1934, Hitler thi hành chính sách độc
tài, cấm tất
cả các đảng đối lập và bức hại
các đối thủ chính trị, ông ta ra lệnh
tước quyền 6 triệu người Do Thái,
đưa họ vào các trại tập trung, lò hơi
ngạc giết chết hàng loạt. Hitler còn ra lệnh
tổng động viên để có một đạo quân
hùng mạnh và vũ khí tối tân. Ngày 01.9.1939 chớp nhoáng
đánh chiếm Ba lan, và những năm tháng kế tiếp
đánh chiếm thêm các quốc gia như: tháng 4.1940 Danmark
Norway, Yugoslavia, Greece, tháng 5 và tháng 6: Holland, Belgium, France,
Luxenbourg, các lãnh thổ của Nga (Sowjetunion): Estonian, Latvia,
Lithuania, Stalingrad... khởi đầu cho thế chiến
thứ hai. Cuộc chiến xâm lược các quốc gia
láng giềng của Đức, khiến Anh- Pháp- Mỹ
tuyên chiến chống lại Hitler. Các nước Canada, Úc,
Tân Tây Lan, Cộng Hoà Nam Phi liên minh chống Đức
Quốc Xã. (hình Nhà Thờ
cụt đầu Berlin)
Từ 1944-1945 Ðức bị
quân đội tứ cường Anh, Mỹ, Pháp, Nga
phản công chiếm đóng, các thành phố bị ném bom hư
hại. Riêng Berlin bị 2.643 tấn bom, làm 70% nhà cửa
hư hại, 49.600 người chết. Berlin dù
được tái thiết nhưng hiện còn giữ
lại ngôi Giáo đường cụt đầu là di tích
chiến tranh. Nhà thờ đã bị ném bom ngày 22-11-1943,
tất cả tan tành chỉ còn tháp chuông bị cụt
đầu. Từ đó tháp chuông được giữ
nguyên sự tàn phá để nhắc nhở dân tộc
Đức về tội phạm chiến tranh và cuối
cùng tháp chuông cụt đầu này trở thành biểu
tượng của Tây Berlin tự do
Hồng quân Nga
chiếm một phần phiá Đông nước Đức
trả thù tàn sát, hãm hiếp, cướp của, giết
người, đốt phá. Hàng trăm ngàn người
Ðức phải chạy trốn bằng đường
bộ dưới trời đông tuyết giá, hoặc dùng
tàu, thuyền chạy trốn, bị tàu ngầm Nga S13 ngày
30.01.1945 húc chìm tàu Wilhelm Gustloff
là tàu chở hành khách khoảng 9000 người chết[1]
đây là thảm kịch ghê tởm nhất của lịch
sử hàng hải.(may mắn cho gia đình Dr. Rupert Neudeck vì
trể tàu không đi trong chuyến hải hành nầy). Ngày
30.4.†1945 Hitler tự từ,
người kế vị là Karl Doenitz (1891-†1980) đầu hàng vô điều kiện
ngày 09.5.1945. Chiến tranh để lại đau
thương, nghèo đói và đổ nát. (xây tường
ngăn cách Đông –Tây năm 1961)
Chiến tranh lạnh,
nước Ðức bị chia đôi Ðông và Tây:
Ngày 06.06.2009 toàn Châu Âu làm lễ kỷ niệm 65
năm cuộc đổ bộ của quân đồng minh
vào bãi biển Normandy của Pháp, mở mặt trận
Đại Tây Dương đánh phát-xít Đức. Đệ
nhị thế chiến Đức thua trận phải
đầu hàng. Đức và Áo thành các vùng chiếm
đóng. Từ năm 1949 phần
đất phía Tây Berlin do quân đội Đồng minh
kiểm soát, thành lập Bundesrepublik Deutschland/Cộng Hòa Liên Bang Ðức. Thủ
tướng đầu tiên Theodor Heuss (đảng FDP từ
1949-1954). Phần đất phía Ðông do
Hồng quân Nga cai trị, thành lập Cộng Hòa Dân Chủ
Ðức/ Deutsche
Demokratische Republik (DDR) theo chủ
nghĩa cộng sản dưới sự lãnh đạo
của chủ tịch Wilhelm Pieck
(đảng cộng sản SED từ 1949-1960).
Các nước Ðông Âu bị Hồng quân
Nga tái chiếm thành lập khối cộng sản, xây hàng
rào ngăn cách, gây cuộc chiến tranh lạnh từ
năm 1946, biên giới dài 1.378,1 Km, từ biển Ðông
Hải (Ostsee) đến cuối biên giới Tiệp
Khắc (Tschecholoslowakei) gồm 1.266,5 km bằng kẻm gai
(MGZ) và 1.196,4 km kiểm soát bằng điện (SSZ) rộng
10 m, tất cả 621 chòi canh gát, 595 hầm trú ẩn[2].
Thủ tướng Anh Churchill (1874-†1965) đã tuyên bố:
„Cay
đắng gọi sự chia cắt Đông, Tây Đức
đi vào lịch sử chính trị thế giới, đánh
dấu thời kỳ đen tối kéo dài nhất của
các dân tộc Âu Châu trong thế kỷ 20. Cũng chính
Churchill cảnh báo thế giới rằng Liên
Xô dưới thời Stalin (1878- †1953) sẽ trở nên nguy hiểm
cho nhân loại không kém gì chế độ
phát-xít của Hitler“ .
Dưới
thời cộng sản, dân Ðông Ðức (DDR) nhiều lần
đứng lên đòi hỏi tự do, các cuộc biểu
tình bị các chiến xa Liên Xô dẹp tan, cuộc nổi
dậy của các giới công nhân dám đứng lên
chống lại chế độ Cộng Sản Đông
Đức do Liên Xô dựng lên. Cuộc nổi dậy tuy
không thành công, nhưng được xem là tiếng kêu
gọi đòi tự do đầu tiên tại vùng Đông Âu
bị rơi vào quỹ đạo của cộng sản
sau Đệ Nhị Thế Chiến. Trong vòng 10 năm đầu
có đến hơn một triệu người đã
lần lượt tham gia vào các cuộc biểu tình đòi
dân chủ, kéo dài suốt 5 ngày liền, đã diễn ra
tại nhiều vùng khác nhau của Đông Đức,
nhưng ngày tập trung đông đảo nhất là vào ngày
17-6-1953, khi những người biểu tình đã làm
bế tắc mọi sự lưu thông, đồng
thời giao chiến ngay trên các đường phố
với các lực lượng công an cộng sản,
tại Đông Bá Linh. Tuy cộng sản Đông Đức bưng bít khá
kỹ càng sự kiện này, nhưng các tin tức lọt
ra được bên ngoài bức màn sắt vào lúc đó, cho
biết đã có ít nhất 125 người biểu tình
thiệt mạng vì bị bắn chết hay chiến xa cán
chết, 15.000 người bị bắt giữ ngay lúc
đó hay trong các thời gian kế tiếp. Các sử gia và
chính trị gia đều công nhận rằng, các cuộc
biểu tình qui mô này, đã mở đầu cho nhiều
cuộc nổi dậy chống cộng sản sau đó,
ngay trong lòng khối cộng sản Đông Âu, mà lần
lượt xảy ra tại các nước như Ba Lan,
Hungary, Tiệp Khắc (với Mùa Xuân Praha 1968) cũng
bị xe tăng của Hồng quân Nga can thiệp bắn
chết người biểu tình. Ngày nay du khách đến
quảng trường Wenceslas Square/ Wenzelsplatz dài 750 m
rộng 45.000m² ở Praha/ Prag còn những tấm hình và Thánh
giá tưởng niệm những người bị
giết bên bồn hồng nở đỏ. (quảng trường Wenzelsplatz)
Từ năm 1952 đến 1961
hơn 3,5 triệu người bỏ Ðông Ðức (DDR) không
chấp nhận chế độ cộng sản
độc tài sang Tây Ðức tìm tự do. Chủ tịch
đảng Walter Ulbricht (1960- 1973) ra lệnh xây tường
ngăn cách Đông-Tây dài 168,8 km, chia thành nhiều
đoạn, 107km bằng beton, 60 km hàng rào kẻm gai.
Tại Berlin tường cao
từ 3,50 đến 4,20 m dày 50 cm. Việc xây tường
làm 10 ngàn căn nhà bị phá hủy, 1.233 cửa sổ các
nhà lân cận xây kín, từ tường ra 100m là bải mìn,
có đặt súng bắn tự động, 302 chòi kiểm
soát 43 pháo đài, 259 nơi nuôi chó săn người.
Từ ngày 13 08.1961 đến ngày 9.11.1989. Bức
tường ô nhục chỉ tồn tại 10.315 ngày (22
năm). Ðêm 09.11.1989 Brandenburger Tor mở cửa, kế
tiếp ngày 01.12. 1989 mở toàn bộ 25 cửa thông
thương. Bức tường bị đập bỏ
chỉ còn lại vài nơi lưu dấu tích lịch
sử và tưởng nhớ 265 người bị bắn
chết khi vượt tường tìm tự do
(tường Berlin có 25 nơi qua biên giới, 13 cửa cho
đường xe, 4 cho tàu hỏa và 8 cửa đường
sông). Cổng Brandenburger Tor ở Berlin
Ðức Thống Nhất:
Ngày 03.10.1990 nước Ðức
thống nhất có 16 tiểu bang, diện tích 357.022 km² dân
số 81,8 triệu trong đó có 7,3 triệu người
ngoại quốc. Quân đội Tứ Cường có
mặt từ ngày 05.6.1945 chấm dứt nhiệm vụ
đóng quân tại Berlin và Liên Bang Ðức thời gian kèo dài
4 năm. Ngày 31.08.1994 triệt thoái hết 309 ngàn Hồng quân Nga và 200 ngàn thân nhân, Chính phủ Đức phải trả hơn
18 tỷ DM cho Liên Xô !
Ðệ nhị thế chiến
chấm dứt, nhưng Việt Nam vẫn tiếp tục
cuộc nội chiến (quốc-cộng). Ngày 30-04-1975
kết thúc chiến tranh, thống nhất hai miền.
Tại miền Nam hàng trăm ngàn sĩ quan, công chức, các
chuyên gia của chế độ cũ bị đưa vào
trại tập trung cải tạo trên rừng sâu
nước độc, những nạn nhân bị tướt
đoạt tài sản, dù không tham gia chính quyền như:
kỹ nghệ gia, thương gia, thầu khoán, họ có
tài sản nhờ dành dụm tiền kinh doanh buôn bán bị
kết tội „tư bản mại sản „bị
đánh tư sản đuổi đi vùng kinh tế
mới, đổi tiền năm 1975 và 1978 làm suy thóai kinh
tế miền Nam....Từ đó làn sóng người
miền Nam đi tìm tự do, băng rừng vượt
núi sang Campuchia tìm đường đến Thái, hoặc
thuê mướn ghe thuyền đánh cá chạy trốn trên
biển Đông, đôi khi bị lường gạt
mất hết vàng bạc, bị công an biên phòng bắt,
đánh đập tàn bạo kết án phản quốc ra
đi vì kinh tế, nhưng không làm dừng bước làn
sóng người vượt biển dù sóng to gió lớn,
gặp hải tặc Thái Lan hãm hiếp cướp của
giết người, để rồi không biết bao nhiêu
người bị chôn vùi dưới lòng đại
dương.
Phong trào
vượt biên sôi động nhất vào năm 1978, 1979,
những thuyền nhân Việt Nam đến
được các nước láng giềng tại Á Châu càng
ngày đông hơn. Cao Ủy Tị Nạn kêu gọi các
nước Tây phương thâu nhận người
Việt tỵ nạn. Mở đầu cho một ngày
lịch sử của lòng nhân đạo, thống đốc
Ernst Albrecht tiểu bang Niedersachsen đã thâu nhận 1000 người
trên tàu „Hải Hồng“ đến Hanover Langgenhagen ngày
03.12.1978. Sau đó các tiểu bang khác nhận thêm một
số người của tàu Hải Hồng ở Phi
Luật Tân (tàu nầy đi theo diện bán chính thức).
Thảm trạng của người vượt biển
làm chấn động lương tâm Thế giới Cao
Ủy Tỵ Nạn UNHCR (Unitet Nations High Commissioner for
Refugees) kêu gọi các quốc gia tự do trên thế
giới hãy mở vòng tay nhân đạo để đón
nhận người Việt tị nạn Hình Ngày
vui thống nhất Đông Tây
Lòng nhân đạo:
Tại hội nghị Genève vào
tháng 6 năm 1979 tổng thư ký Guenter van Well thay mặt
chính phủ Ðức đồng ý thâu nhận 10.000
người tị nạn Việt Nam ở các trại
tỵ nạn Á Châu, các tàu buôn mang cờ Ðức
được phép cứu vớt thuyền nhân trên
biển. Dr. Rupert Neudeck vận động giúp thuyền nhân
Việt Nam với các nhà văn, nhà báo, chính trị gia như
Heinrich Boell (1917-†1985) giải
thưởng văn chương Nobel 1972, Martin Walser, Gunter
Grass (giải Nobel 1999), Hilde Domin, Dieter Wellershoff, Carl Amery
(chủ tịch Hội văn bút 1989-1891) Dr. Franz Alt, Matthias
Walden, Wener Hofer, Carola Stern, Akfred Biolek và Kabarettisten, Dieter
Hildebrandt, Helga Schuchardt (FDP), Norbert Blum (cựu bộ
trưởng lao động), Elmar Pieroth, Matthias Wissmann (CDU),
Volker Neumann, Ootergetelo (SPD) cố tổng thống Johannes Rau
(1931-†2006 thống đốc
tiểu bang Nordrhein Westfalen), thống đốc Ernst Albrecht
[3]…
Ngày 24.07.1979, trong chương
trình truyền hình „Report Baden Baden“ do tiến sỹ Franz Alt điều khiển, các
ông Walter Bargatzky, tổng thư ký của Hồng Thập
tự Ðức và Dr. Rupert Neudeck nói về trình trạng
thuyền nhân Việt Nam và kêu gọi thành lập „Một
Con Tàu Cho Việt Nam“. Tính đến ngày đến ngày 27.07.1979
chương trình này nhận được 1 triệu 2 DM
ủng hộ vào trương mục của Hội
Hồng Thập Tự „Hiệp
Hội Bác Sĩ Không Biên Giới “ đã gởi các Bác sĩ và Y
tá theo giúp con tàu hoàn toàn thiện nguyện. Trong 3 năm
với con tàu tuyệt diệu của chủ tàu ông Hans Voss
cùng với những cộng sự viên nhiệt thành cứu
vớt thuyền nhân Việt Nam. Ngoài Cap Anamur còn những thương
thuyền mang cờ Đức đã vớt thuyền nhân
Việt Nam như: Tokyo Express (tháng 4-1979 vớt 90 người);
Nordertor (tháng 9-1979 vớt 173 người); Melbourne Express
(tháng 5-1980 vớt 225 người); Winsertor (tháng 4-1981
vớt 104 người); Shell Tanker Elona (tháng 5.1981 vớt 93
người) Etha Rickmers (tháng 6-1977 vớt 36 người và
tháng 4-1986 vớt 25 mgười ); Das deutsche Forschungsshiff
(23.8.1988 vớt 157 người), tàu Ville de Pluton năm 1978
cùng những tàu khác đã vớt người không được
biết tên ….
"Một Con Tàu Cho
Việt Nam" ra khơi:
Cap Anamur chính thức ra
đời ngày 09.08.1979 từ hải cảng Kobe Nhật
Bản ra khơi trên đường hướng về
biển đông. Tàu Cap Anamur mang tên một mũi đất của hải
tặc nằm ở phiá cực nam Thổ Nhĩ Kỳ hoạt động đến 26.6.1982,
cứu vớt 8.572 người, đưa vào các trại
tị nạn Sem Bawang (Singapor), trại Palawan (Phi luật
Tân), trại Galang (Indonesia) tạm trú một thời gian
ngắn chờ định cư Tây Ðức hoặc
đến các đệ tam quốc gia trên thế giới.
Tàu Cap Anamur hoạt động 22 tháng, mỗi tháng tốn
400 ngàn DM, (chủ tàu Hans Voss không lấy tiền thuê tàu) theo
tuần báo Stern tính, cứu một thuyền nhân tốn
khoảng 1.075DM[4] . Tổng
số tiền ủng hộ đã lên đến 29
triệu Đức Mã, tức là khoảng 15 triệu Euro,
là một số tiền lớn của những ân nhân đã
ủng hộ trong suốt thời gian tàu Cap Anamur vớt
thuyền nhân Việt Nam trên biển Đông.
Hình: Ông bà Dr. Rupert Neudeck được
trao quà tại Munich ngày 2/5 “ Hội ngộ 30 năm tỵ
nạn CS”
Con tàu ra khơi kéo dài cả
tháng, hay vài tuần lênh đênh trên biển, chạy dọc
theo hải phận quốc tế hay vào hải phận
Việt Nam để cứu vớt người, có
trực thăng bay tìm ghe vượt biên, chụp hình và
cảnh cáo hải tặc Thái đánh cướp thuyền
nhân, ném người xuống biển. Cap Anamur 1 vớt
hơn 22 chuyến (được tính thứ tự từ
Cap Anamur 1 đến 5 vào cảng Singapor), Cap Anamur 6 vào
Galang. Cap Anamur ngưng hoạt động, về lại
Hamburg lúc 12.30 ngày 26.7.1982 trên tàu có 287 thuyền nhân
được hàng ngàn người Việt-Ðức đón
tiếp, quốc ca Việt Nam được hát dưới
rừng cờ vàng 3 sọc đỏ tung bay. Bốn năm
sau con tàu (Cap Anamur 2) tiếp tục ra khơi, dù không
được ủng hộ như lần đầu, Thống đốc tiểu bang
Hessen ông Holger Börner không ngần ngại tuyên bố „con tàu
tạo ra những làn sóng tỵ nạn…“Tiến sỹ
Neudeck đã cho rằng đó là lời ngu ngốc ác ý. Con
tàu không tạo ra thảm kịch của những người
tỵ nạn. Đã có ít nhất 5 triệu người VN
hoàn toàn cùng quẫn dưới chế độ bị đàn
áp tại VN. họ bị đẩy vào những trại
cải tạo giết người, những người
có quan hệ với chính quyền Mỹ, những người
tư sản bị đẩy đi vùng kinh tế chết
người không kém…“ (trong tác phẩm Christel und Rupert
Neudeck: Zwei Leben für die Menschlichkeit)
Từ 03.3.1986,
tàu Cap Anamur đã cứu được 88 ghe, sau đó tàu
chạy qua kinh đào Suez (kinh nầy mở cửa từ
17.11. 1869), biển địa trung hải, mang theo 357 người
về cảng Hamburg. Số người này được
phân phối cho các tiểu bang. Tháng 4 năm 1987 Cap Anamur 3
lại ra khơi, cứu 14 thuyền tổng số 905
người, được Pháp và các quốc gia khác thâu
nhận. Cap Anamur chấm dứt mọi hoạt động
vào ngày 22.7.1987. Con tàu mang tên „Mary Kingstown“ mang cờ
vương quốc Monaco, được xem là (Cap Anamur 4) hoạt
động trên biển đông, chỉ cấp nước,
thực phẩm, thuốc men, ngăn ngừa bớt
nạn hải tặc Thái lan. Ủy Ban Cap Ananur ngày nay
vẫn hoạt động giúp các nước nghèo đói,
chiến tranh tai nạn thiên tai. Ông Dr.Rupert Neudeck không còn làm
Chủ tịch Uỷ Ban Cap Anamur, nhưng ông tiếp
tục chương trình Mũ Xanh giúp dân nghèo ở cao nguyên
Việt Nam. Hình : Người từ phải
tiến sỹ Albrecht cựu thống đốc tiểu
bang Niedersachsen nhận 1 ngàn người Việt đầu
tiên
Theo tài liệu của chính
phủ những năm đầu, (hiện nay con số đó
đã thay đổi) các tiểu bang đã thâu nhận người
Việt tỵ nạn từ năm 1978: Bayern (12.082); Berlin
(11695); Sachsen (9768); Niedersachsen (9666); Baden-Württemberg (6145);
Nordrhein-Westfalen (5987); Sachsen-Anhalt (5285); Brandenburg (5125);
Reinland-Pfalz (4274); Hessen (4024); Thüringen (3335); Mecklenburg- Vorpommern
(2780); Hamburg (1259); Schleswig-Holstein (932); Saarland (556): Bermen (533).
Tổng kết qua những đợt vớt của Cap
Anamur là 11.500 người và một số đông theo
diện đoàn tụ gia đình. Ngày 12/9/2009 Bộ trưởng
bộ nội vụ tiến sỹ Wolfgang Schäuble cho
bìết tổng số người Việt sinh sống
tại Đức 90.000 người, trong đó hơn ½ là
những người đến từ các nước Đông
Âu. (Berlin nơi tập trung rất đông người
Việt gốc miền Bắc).
Thuyền nhân hội
nhập:
Thuyền nhân định cư
theo từng tiểu bang, học Ðức ngữ từ 8
đến 10 tháng, được hướng dẫn tìm
việc làm hoặc tiếp tục học nghề, muốn
thi vào các đại học, được hội Otto
Benecke Stiftung cấp tiền học thêm 8 tháng Ðức
ngữ. Có chương đoàn tụ gia đình vợ
chồng, trẻ em vị thành
niên làm thủ tục bảo lãnh gia đình. Bộ ngoại
giao Đức can thiệp với chính quyền Việt Nam
cho phép số người đoàn tụ gia đình trong vòng
vài năm, tiền vé máy bay ăn học được
chính phủ giúp đở. Nhiều Hội Ðoàn ra
đời sinh hoạt, luôn nêu cao tinh thần tranh đấu
tự do và dân chủ cho Việt Nam. Cộng đồng
người Việt định cư khá ổn
định và hòa nhập vào cuộc sống nhập tịch Đức có nghề nghiệp vững chắc đi làm ở các hãng xưởng, một
số người kinh doanh về nhà hàng, các quán ăn nhanh,
thực phẩm Á châu. Thế hệ thứ hai trưởng
thành theo học các đại học nổi tiếng ra
trường với học vị cao xuất sắc,
hoặc theo học các ngành nghề trở thành những
chuyên viên kỹ thuật giỏi như người bản
xứ.
Diễn văn ngày khánh thành tượng đài cảng
Hamburg ngày 12/9/2009 Dr. Wolfgang Schäuble bộ
trưởng bộ Nội vụ: „những
người trước đây là những thuyền nhân
tỵ nạn hiện đang hoà hợp chung sống trong xã
hội chúng ta. Tôi phải ngỏ lời cám ơn họ
về những đóng góp của họ cho nước
Đức này, vì họ đã làm cho đất nước
chúng ta thêm phần phong phú hơn. Sự hội nhập của
người Việt Nam trong xã hội Đức hôm nay là
một thành công lịch sử trên đất nước
này.…“ Nhìn lại 30 năm,
gần một nửa đời người
sống ở Đức, bản
sắc văn hóa Việt Nam vẫn được trường tồn và phát
triển.
Người Việt tỵ
nạn cộng sản không phải ai cũng ôm cái qúa
khứ của mình trước 1975, mọi người
đều hội nhập vào xã hội mới, nhưng
không phải vì cuộc sống vật chất để rồi
quên vấn đề chính tại sao chúng ta phải
bỏ nước ra đi? Nhiều người không
thích làm chính trị, đảng phái. Nhưng nơi nào có
tham nhũng, bất công, độc tài, tất cả đều
sẳn sàng chống lại và hảnh diện đứng dưới
cờ vàng ba sọc đỏ là biểu tượng
của người Việt tỵ nạn từ 30 năm
trước bỏ nước ra đi vì tự do, không
phải vì lý do kinh tế.
Hình (Ông Harry Voss
là em ông Hans Voss đã qua đời là chủ tàu Cap, Harry là
thuyền trưởng đầu tiên của Cap Anamur)
Người Việt
tị nạn „ khách thợ“ từ Ðông âu:
Từ năm 1990 khi chủ
tịch Gorbatschow thay đổi chính sách cai trị Glasnost
„cởi mở“, Perestrojka „tái phối trí“ thì Liên Bang Sô
Viết đổi mới toàn bộ. Ngày 02.05.1989 Ungarn
mở cửa biên giới thông thương với Tây
phương. Hàng ngàn người Ðông Ðức hướng
về Budapest của Ungarn, chạy vào tòa Ðại sứ Tây Ðức
để xin tị nạn, ngày 30.9.1989 ở trên lầu toà
Đại sứ Đức ở Prag ngoại trưởng
Hans Dietrich Genscher đã chào mừng những người từ Đông Đức đến xin tỵ nạn là một ngày
mang lại tự do „Liebe
Landsleute, wir sind zu Ihnen gekommen um Ihnen mitzutelen, Dass heute Ihr
ausreisen….der Tag, der die Freiheit brachte…“
Hình (tiến
sỹ Franz Alt phóng viên báo chí và truyền hình giúp thuyền
nhân VN)
Các nước Ðông Âu thay đổi chính sách cai
trị, kéo theo sự sụp đổ thiên
đường cộng sản. Ðông và Tây Ðức thông
thương từ ngày 09.11.1998 hơn 11 triệu
người từ Ðông (DDR) sang Tây thăm viếng, chính
phủ (CHLBD) cho mỗi đầu người 100 DM. Các
siêu thị bán sạch hàng tồn kho, đi tay không nhưng
về tay xách, vai mang triểu nặng hàng hóa. Sau ngày
thống nhất nưóc Ðức thêm gánh nặng kinh tế,
các hãng xưởng bên Ðông lỗi thời, đưa
đến bế tắc việc sản xuất, số
người thất nghiệp gia tăng, người
đi làm (bên Tây Đức) phải đóng tiền thuế
„đoàn kết“ hàng tháng cho đến nay chưa
chấm dứt, để xây dựng miền đất
phía Ðông, 41 năm bị tàn phá dưới chế độ CS
Người Việt theo
diện „lao động nghĩa vụ quốc tế “
tức là đi làm lao động trả nợ chiến
tranh, dưới thời cộng sản Ðông Ðức (DDR)
bị bóc lột tận xương tủy, họ không
được học Ðức ngữ đi làm tại các
hãng xưởng, đều có thông dịch viên hay các
đội trưởng (cai) do đảng viên cộng
sản người Việt chỉ huy, lương tháng
bị khấu trừ nợ nần .. Sau khi mở cửa
dân Ðông Ðức (DDR) sang Tây thăm viếng. Người
Việt, nam, nữ lợi dụng cơ hội lúc giao
thời bỏ trốn sang Tây, được người
Việt tỵ nạn (boat
people) giúp đỡ hướng dẫn các thủ
tục xin tỵ nạn. Đây cũng là dịp may cho các
chàng độc thân „chọn mặt gởi vàng“
Các nước Ðông Âu đều có người
Việt lao động hoặc du học sinh, tìm
đường sang Ðức tỵ nạn. Hơn 60 ngàn công
nhân lao động xuất khẩu còn hợp đồng
làm việc bên Ðông (DDR) đứng trước hai ngã
đường về hay ở? Chính phủ bồi
thường mỗi đầu người lúc đó là 3.000DM để
hồi hương. Phần lớn họ không muốn
vể, có một số người ở lại bán
thuốc lá nhập lậu từ Ðông Âu qua các
đường dây Mafia. Tại các thành phố bên Ðông như
Berlin, Leipzig, Dresden bán thuốc lá kiếm khá nhiều
tiền, mỗi ngày vài ba trăm Mỹ Kim, nhiều
người trở thành „chủ nhân ông“ tạo nên
nhiều băng đảng, thanh toán giết nhau. Suốt
trong thời gian đó đã xảy ra nhiều vấn
đề phức tạp đó là tệ nạn trong
một tập hợp nhiều thành phần xã hội! Báo
chí, truyền hình đều loan tin về việc trên, gây
ấn tượng xấu cho người Việt Nam nói
chung. Thời gian ngắn các băng đảng này bị
dẹp tan, các tội phạm giết người bị
truy lùng, bị kết án chung thân khổ sai hay bị
trục xuất. Một số khác chạy trốn sang các
nước Ðông Âu. Nhìn chung những người Việt là
„tường nhân“ đến phần đất phiá Tây
lập nghiệp thành công và hội nhập vào xã hội mới, nhưng phần lớn còn
giữ quốc tịch Việt Nam. Chúng
ta đều là người Việt
không phân biệt Bắc-Nam-Trung. Nhưng trong dư luận
bức tường vô hình là biên giới
ý thức hệ không thể một ngày có thể xóa bỏ
được! Điều đau
lòng nhất, tình cờ tôi nghe người cảnh sát
trưởng ở Berlin nói „hơn
½ tội phạm hình sự trong các trại tù ở Berlin
mang họ Nguyễn như tôi„
Hàng năm vào các dịp Tết
Cộng Ðồng Việt Nam, tổ chức tết mừng
xuân hướng về quê hương. Ngoài ra các niệm
Phật Ðường, chùa Viên Giác thường tổ
chức Tết, Ðại lễ Phật Ðản hay lễ Vu
Lan. Ðại Hội Công Giáo trong dịp lễ Hiện
xuống thường tổ chức vào tháng 5 tại
Aschaffenburg qui tụ trên 3000 Tín đồ. Sinh hoạt
của hai tôn giáo lớn của người Việt
tại Ðức là Phật Giáo và Thiên Chúa Giáo. Nguyệt San Dân
Chúa Âu Châu và Viên Giác phát hành đều đặng gần 3
thập niên trong Cộng Đồng Người Việt
tỵ nạn CS tại Đức và Thế giới. Ông Arnold Vaatz Phó
chủ tịch liên đảng CDU/CSU tại Quốc
Hội Đức tuyên bố trong ngày khánh thành
tượng đài Hamburg: “Biến cố thuyền nhân
Việt Nam 30 năm trước, chính là chất xúc tác làm
dấy động, khiến dân chúng Đức nhận
thức được giá trị của hai chữ Tự
Do mà nung đúc ý chí quật khởi, để mười
năm sau, bức tường ô nhục Bá Linh xụp
đổ, chúng ta xóa bỏ hai miền Đông và Tây
Đức đối đầu chủ nghĩa…Chúng tôi
phải cám ơn người tỵ nạn Việt
Nam…”
Ba thập niên trước, thời đó dân
biểu liên bang thuộc đảng SPD đã gọi
thuyền nhân Việt Nam: „Verdammten
der Meere/ những kẻ khốn cùng của biển„ . Bây
giờ Người Việt đã trở thành công dân
hữu ích của nước Đức đều có làm
việc tốt, nhiều người đã về
hưu. Luôn phát huy văn hóa tham gia các
công tác xã hội, trước đây đã quyên góp cho dự
án giúp ủy ban Cap Anamur và Grümhelme của Dr. Neudeck, giúp
đỡ đồng bào bên quê nhà bị thiên tai bảo
lụt, giúp các thương phế binh VNCH, trẻ em tật
nguyền… Chúng ta phải đứt
ruột rời bỏ quê hương sau ngày 30.4.1975 luôn
hướng về cội nguồn dân tộc, không vướng
bận hận thù của cuộc chiến tranh khói lửa
tàn phá quê hương, nhưng chưa có
niềm tự hào về dân tộc đất
nước, bởi vì Việt Nam
thống nhất 34 năm (1975 -2009) vẫn còn trình
trạng nghèo nàn, lạc hậu, trẻ em thất học,
xuất cảng người đi lao động...
Chúng ta là nhân chứng
của lịch sử đã trải qua việc thống
nhất Việt Nam và Đức Quốc rút ra một học bài học vô cùng cao quý, TỰ
DO, DÂN CHỦ không phải là những điều bổng dưng
có được, chế độ ĐỘC TÀI đã và đang
bị đào thải trên trái đất nầy. Kỷ niệm 19 năm thống nhất
nước Đức, 20 năm bức tường
Berlin sụp đổ, nước Đức phát triển
phồn thịnh trong hạnh phúc an
lạc, tự do, dân chủ và nhân quyền. Dân tộc Đức hảnh diện như
lời đại văn hào Johann Wolfgang von Goethe (1749-†1832) đã viết trong bi kịch phần 1
„Faust I Eine Tragödie“ năm 1808 „Vor mir den Tag und hinter mir die Nacht /
về phía trước tôi là bình minh rực sáng và sau lưng
tôi là bóng đêm tăm tối..“