Zu der Gedenkfeier
in München am 2. Mai 2009 aus Anlaß von 30 Jahren CAP ANAMUR und
MENSCHENRETTUNG
Fast alles hätte
die deutsche Politik und die deutsche Gesellschaft annehmen können, nur das
nicht: Dass es 2009 in Deutschland keine Debatte und keinen Streit darüber
gibt, dass die bestintegrierte Gruppe
ausländischer Herkunft die Vietnamesen sind. Etwa 80.000 Vietnamesen, das sind
diejenigen, die es geschafft haben, die deutsche Sprache nicht nur zu lernen,
sondern auch die besten Abiture, die besten Examina zu machen.
Die Vietnamesen
sind geradezu die Lieblinge der Nation geworden, weil es mit ihnen so gut geht
wie bisher mit keiner ausländischen Gruppe (bisher jedenfalls!).
Wer von uns, die
wir uns 1979ff großen und heftigen Widerständen der Politik gegenübersahen,
hätte das für möglich gehalten? Wir hatten ja damals nur den ethnischen
Imperativ im Kopf, den uns auch unser christlicher Glaube verpflichtend machte:
Menschen, die vor unseren Augen in Gefahr sind, zu sterben und getötet zu
werden, muss man versuchen zu retten.
Das ist sehr klar, nicht so klar ist es in der verwalteten Welt. Dort sucht man
nach den Zuständigen und den Experten und hat am Ende vielleicht mehrere
Gutachten aufeinandergestapelt, aber nicht einen einzigen dieser
Bootsflüchtlinge gerettet.
Wir aber wollten
nur etwas tun, wir wollten nicht einmal einen Seerechtsreferenten anstellen,
der uns ganz sicher bei dem Unternehmen nur Hindernisse in den Weg gelegt
hätte.
Die Aktion wurde
getragen von Millionen deutscher Bürgerinnen und Bürgern, die damals für das
Schiff gespendet haben, ohne die Organisation zu kennen. Es war dieses die
größte und erfolgreichste Bürgerinitiative in deutschen Landen seit 1949. Mit
dem ersten Schiff, das wir am 9. August 1979 in Dienst stellten, haben wir
insgesamt 9507 Vietnamesen aus dem Wassergezogen. Mit dem zweiten Schiff (März
bis Juni 1986) haben wir erneut 888 Bootsflüchtlinge retten können. Mit dritten
Schiff, das wir mit dem jetzigen französischen Außenminister Bernard Kouchner
und seiner Organisation „Medecins du Monde“ zusammen organisiert haben, konnten
wieder 905 Vietnamesen in völlig unzureichend ausgerüsteten und überfüllten
Flussboote dem Wasser entrissen werden.
Fast alle kamen in
die Bundesrepublik Deutschland.
Es waren Millionen
meiner Mitbürgerinnen und Mitbürger, es waren auch viele Einzelpersonen, die
daran entscheidenden Anteil hatten: Ich nenne hier jetzt nur fünf:
Heinrich Böll, ohne
den der Verein gar nicht hätte aus der Taufe gehoben werden können. Dieter
Hildebrandt, der uns die ersten 1000 DM schickte und dazu schrieb: „Das ist
zwar eine verrückte Idee, aber ich liebe Menschen mit verrückten Ideen!“
Dann war es der
Ministerpräsident von Niedersachsen Ernst Albrecht, der der bereitwilligste
Freund dieser Aktionen war, es war auch Johannes Rau, der damals
Ministerpräsidenten von Nordrhein Westfalen war. Und last but not least – Franz
Alt, der mit seiner Stimme damals eine unerbittliche Nervensäge in der
Öffentlichkeit war und besonders unsere Aktion immer unterstützt hat.
Die ersten kamen
schon am 3. Dezember 1978, sie waren die tausend, die beherzt und großzügig der
Ministerpräsident Albrecht aufgenommen hatte, weil er sich klar war: Er kann
als MP nicht alle große Elend dieser Welt lindern und alle Probleme lösen, aber
hier kann er beherzt etwas zusagen. Und er TAT das auch.
Wir haben dann im
3. Jahr der ersten CAP ANAMUR einen Schuß vor den Bug bekommen. Die Regierungen
der westdeutschen Bundesländer hatten Angst, wie man damals sagte, dass wir
„das ganze chinesische Meer leer retten“ würden. Und das musste verhindert
werden. Symbolische Aktionen, auch ein paar tausend, aber es muss sich das
Gutes Tun doch in Grenzen halten.
Wunderbar die
Szene, die uns vom niedersächsischen Kabinettstisch berichtet wurde:
Wir hatten als
kirchlich und gesellschaftlich geprüfte Quälgeister wieder den Kahn Cap Anamur
voll mit Flüchtlingen. Ich rief den Albrecht an und fragte ihn, ob er über
seinen Proporz gleich mal hundert wieder aufnehmen würde, sagte er sofort zu.
Ich musste ihm – das lernte ich damals – ihm einen kurzen Brief mit dem Telefax
zusenden.
Albrecht gab am
Kabinettstisch in Hannover bekannt: Wir nehmen erneut hundert Leute, die von
der Cap Anamur gerettet wurden, auf. Da schrieb der damalige niedersächsische
Innenminister Möcklinghoff auf einen Zettel: „Wir haben aber keine Plätze.
Möcklinghoff!“
Und schon den
Zettel auf dem Kabinettstisch zum Ministerpräsidenten. Darauf schrieb
Ministerpräsident Albrecht darunter:
„Dann machen Sie
welche! Albrecht“ das war damals eine Sternstunde der Deutschen Gesellschaft-
Nicht allein der
Kirchen, die haben sich eher politisch verhalten. Aber in allen Gemeinden
Deutschlands gab es ein Stühlerücken, um diese „damnes de la mer“, (dt. die
„Verdammten der Meere“) aufzunehmen.
Es ist heute
unbeirrbar klar und wird von niemandem mehr bezweifelt: Diese Vietnamesen tun
der deutschen Gesellschaft gut, sie tun uns als Deutschen gut. Selbst wenn sie
bei einem Regimewechsel in Vietnam einfach in der Mehrheit wieder zurückgehen
würden, sie würden eine lebhafte große Erinnerung zurücklassen.
Die Selten ist in
der deutschen Gesellschaft eine NRO, eine Nicht Regierungs-Organisation so
allein von den Bürgern getragen worden wie in den Jahren 1979 bis 1986. Es gab
von Seiten der Staaten nur einmal eine Zuwendung von Seiten der europäischen
Gemeinschaft. Das Europa Parlament stimmte 1983 eine Resolution ab, die der
Abgeordnete Horst Langes eingebracht hatte. Wir wurden dafür eingeladen nach
Strassburg, Und wir haben zugeschaut, dass das Parlament, dem damals so
illustre Leute wie Willy Brandt, Heinz Oskar Vetter, Enrico Berlinguer, der
Chef der italienischen Kommunisten angehörte, alle einstimmig diese Resolution
unterstützen und wir 60.000 DM bekamen.
Wir Deutschen,
jetzt mit Einschluß der 80.000 vietnamesischen Deutschen, sollten das als ein
Versprechen in unserer Lebenszeit nehmen. Immer da, ob zu lande zu wasser oder
in der Luft, Menschen gefoltert, gequält, verfolgt, gejagt, geschlagen, zur
Zwangsarbeit gezwungen, unter Besatzungsregime gehalten werden, da müssen wir
uns für sie einsetzen.
Die erfolgreiche
Rettungsaktion auf dem südchinesischen Meer fordert von uns Fortsetzungen auch
in unseren Tagen, auch in den Jahren 2009ff. Ob das Afghanistan, Ruanda, ob das
Zimbabwe oder Kaschmir, ob das Palästina oder Mauretanien ist, es geht immer um
das Urgesetz des Samariters aus dem Gleichnis im Evangelium: Wer war denen der
Nächste, der den vom Tod durch Ertrinken bedrohten Vietnamesen auf dem Südchina
Meer geholfen hat? Es waren meine deutschen Landsleute!!
Sie sind zu
weiteren humanitären Großtaten bereit und in der Lage.
Dr. Rupert Neudeck
.
Người Việt Nam ở
Đức - tưởng như huyền thoại.
Nhân buổi Lễ
Kỷ niệm 02.05.2009 tại München vào dịp 30 năm CAP ANAMUR và việc CỨU VỚT NGƯỜI.
Hầu như bất kỳ chuyện gì người
trong chính giới và xã hội Đức cũng đều
có thể hình dung ra được, duy chỉ có
điều này thì không: Vào năm 2009 tại Đức không
cần phải bàn cãi gì nữa, nhóm người gốc
ngoại quốc có thành quả hội nhập tốt đẹp
nhất chính là những người Việt Nam. Tập
thể người Việt, khoảng 80.000, rất thành
công, không những trong việc học tiếng Đức,
mà còn qua những đợt lấy bằng tú tài, kỳ thi
cử đỗ đạt giỏi nhất.
Người Việt Nam đã trở thành những
người con đáng yêu của tổ quốc, bởi vì
họ đã thành công vượt trội hơn tất
cả các nhóm người ngoại quốc khác (ít nhất
là cho tới lúc này).
Nhóm chúng tôi, những người mà trong năm 1979
đã phải đương đầu với những
chống đối mãnh liệt của chính sách nhà
nước, đâu có ai đoán trước được
cái thành quả ấy? Hồi ấy chúng tôi trong đầu
chỉ có mỗi cái thôi thúc mang tính chất chủng
tộc, mà chính cái đức tin Thiên chúa giáo cũng đòi
hỏi chúng tôi là phải cố gắng cứu những
người trước mắt đang gặp hiểm
họa chết chóc và bị giết.
Sự kiện đó thật rõ ràng, nhưng trong
giới cầm quyền thì lại chẳng mấy ai
hiểu cả. Họ cứ mải lo tìm kiếm những
kẻ có thẩm quyền và phó mặc cho chuyên gia để
cuối cùng biết đâu lại có thêm một mớ các
bản giám định chồng chất nữa, nhưng
rồi chẳng cứu được một thuyền
nhân tỵ nạn nào cả.
Riêng chúng tôi thì chỉ muốn thực hiện ngay
một cái gì đó, mà cũng không ưa chuyện đề
cử một chuyên gia về luật hàng hải, kẻ
đó chỉ gây thêm phiền toái và trở ngại cho công
việc của chúng tôi mà thôi. Chiến dịch này đã
được sự tiếp tay của hàng triệu công
dân Đức, nam cũng như nữ, hồi ấy
họ đã yểm trợ con tàu, mà không hề biết
đến cái tổ chức đó. Chiến dịch ấy
đã trở thành sự khởi xướng lớn
nhất của quần chúng và thành công nhất ở
nước Đức kể từ năm 1949. Với con
tàu đầu tiên, phát xuất vào ngày 09 tháng tám 1979, chúng tôi
đã vớt được tổng cộng 9.507
người Việt. Rồi với con tàu thứ hai
(từ tháng ba tới tháng sáu 1986) chúng tôi lại cứu
được 888 thuyền nhân tỵ nạn. Tàu thứ
ba, mà chúng tôi thực hiện chung với ông Bernard Kouchner,
bây giờ là ngoại trưởng Pháp, và tổ chức
"Y khoa cho thế giới" của ông, lại thêm
được 905 người Việt được
vớt lên từ những chiếc ghe chạy sông chở
khẳm mà trang bị lại quá sức sơ sài. Hầu
hết số người đó đã đến
định cư tại Cộng Hòa Liên Bang Đức.
Hàng triệu đồng hương người
Đức của tôi, rất nhiều người đã
đích thân góp phần đáng kể: Ở đây tôi
chỉ xin kể ra năm người:
Heinrich Böll, không có ông ta thì tổ chức đã không
hình thành được.
Dieter Hildebrannt gửi cho chúng tôi 1.000 Đức Mã
đầu tiên và viết trong thư: "Cái ý tưởng
đó thật là điên rồ, nhưng tôi lại chịu
những người có những ý tưởng điên
rồ như vậy !" Rồi Thống đốc
tiểu bang Niedersachsen Ernst Albrecht, người bạn
sốt sắng nhất trong các chiến dịch này, sau
đến Johannes Rau, thời đó là Thống đốc
tiểu bang Nordrhein Westphalen. Sau cùng là Franz Alt, hồi đó là người đã dùng
tiếng nói của mình, ra rả vận động trong
công chúng không biết mệt mỏi và đặc
biệt luôn luôn ủng hộ mọi công việc của
chúng tôi hết mình.
Những thuyền nhân đầu tiên đã tới
Đức ngày 03 tháng 12 1978, thuộc nhóm một ngàn
người đã được Thống đốc
Albrecht đón nhận một cách can đảm và quảng
đại, bởi vì ông hiểu rằng, với tư
cách là Thống đốc, ông không thể nào xoa
dịu được tất cả những khổ
đau của thế giới này, cũng như không thể
giải quyết được tất cả các vấn
đề, nhưng
ở đây ông có thể can đảm hứa nhận
đón người. Và ông cũng đã làm điều
ấy !
Tàu Cap Anamur đầu tiên hoạt động
đến năm thứ ba thì chúng tôi bị dập một
cú trước mũi tàu. Chính quyền các tiểu bang Tây
Đức lo sợ điều mà người ta hồi
đó rêu rao, là không chừng chúng tôi "dám vớt sạch
cả biển Đông lắm". Và phải chận
điều đó lại mới được. Hành
động có tính
chất tượng trưng, rồi tới cả mấy
ngàn, nhưng làm việc thiện gì thì cũng có giới
hạn thôi!
Có câu chuyện rất thú vị mà chúng tôi
được nghe kể từ cuộc họp nội các
tiểu bang Nieder-sachsen: Chúng tôi, những kẻ chuyên
tạo rắc rối cho nhà Chung và xã hội, lại có
đầy người tỵ nạn trên chiếc tàu Cap
nhỏ bé của mình. Tôi gọi điện cho ông Albrecht và
hỏi xem ông ta có thể nhận thêm trăm người
tỵ nạn quá số lượng đã phân chia
được không, ông chấp thuận ngay. Tôi phải
gửi bằng fax cho ông một bức thư ngắn - hồi đó tôi đã học
được điều này.
Tới kỳ họp nội các ở Hannover, ông
Albrecht báo tin ấy: Chúng ta lại nhận thêm trăm
người do tàu Cap Anamur cứu. Bộ trưởng
Nội vụ thời ấy là Möcklinghoff đã viết vào
mảnh giấy: "Nhưng mình không còn chỗ nữa.
Möcklinghoff !" Rồi đẩy mảnh giấy ấy
đến chỗ ngài Thống đốc. Ông viết vào
phía dưới mảnh giấy đó: "Thế thì ông hãy
tạo ra chỗ mới đi! Albrecht". Khi ấy là giờ
hoàng đạo của xã hội Đức - Không chỉ
riêng cho phía nhà Chung, hồi ấy thái độ của
họ có vẻ còn lưỡng lự lắm. Nhưng trong
tất cả các giáo xứ Đức thì người ta
tích cực vô cùng , để thêm chỗ trống đón
nhận những "damnes de la mer" ("những kẻ
khốn cùng ngoài biển").
Giờ thì chẳng có nhầm lẫn gì nữa và
cũng không ai nghi ngờ gì cả: Tập thể
người Việt Nam ở đây tạo thịnh
vượng thêm cho xã hội Đức, họ
làm người Đức chúng ta được hãnh
diện. Ngay cả nếu như Việt Nam thay
đổi chế độ và đa số người
Việt trở về quê hương thì họ cũng
sẽ để lại trong chúng ta một kỷ niệm
rất ư là nồng nàn, sống động.
Trong xã hội Đức hiếm khi thấy tổ
chức NRO, một hình thức tổ chức phi chính
phủ hoàn toàn do dân chúng gánh vác như hồi những
năm 1979 – 1986. Về phía các quốc gia thì chỉ có
một lần được sự trợ giúp của
Cộng đồng Âu châu. Vào năm 1983 quốc hội Âu
châu đã bỏ phiếu cho một nghị quyết do dân
biểu Horst Langes đề ra. Chúng tôi được
mời tới Strassburg để chứng kiến quốc
hội, thời đó có những nhân vật nổi
tiếng như Willy Brandt, Heinz Oskar Vetter, Enrico Berlinguer,
thuộc ban chấp hành đảng cộng sản Ý,
đồng bỏ phiếu thuận cho nghị quyết và
chúng tôi đã nhận được 60.000 Đức Mã.
Người Đức chúng ta, giờ đây bao
gồm cả 80.000 người Đức gốc Việt,
hãy nhận như một lời nguyện suốt
đời. Bất kỳ nơi đâu, trên mặt
đất, dưới nước hay trên trời, nếu
có người bị tra tấn, hành hạ, bị theo dõi,
xua đuổi, bị đánh đập, ép buộc lao
động, bị giam giữ dưới các chế độ xâm chiếm, chúng ta
phải can thiệp cho họ.
Công tác cứu vớt trên biển Đông dù thành công,
vẫn đòi hỏi chúng ta bây giờ, năm 2009 này,
phải tiếp tục. Dầu là A Phú Hãn, Ruanda, dầu là
Zimbabwe hay Kaschmir, Palestin hay Mauretanien, nó vẫn mãi là cái qui
tắc muôn đời của người Samariter trong câu
chuyện ngụ ý trong sách Phúc âm: Ai trong bọn họ là
người đã có tình đồng loại, cứu giúp
những người Việt Nam bị hiểm nguy chết
đuối trên biển Đông?
Chính là những người Đức đồng
hương của tôi!!
Họ luôn sẵn sàng và có thể tiếp tục
đảm nhận những việc thiện cao quý khác.
Dr. Rupert Neudeck