NGỰA TRONG KHOA HỌC và ĐỜI SỐNG
Trong
thập nhị chi, con giáp thứ 7 là con ngựa hay Ngọ chữ Hán Việt là Mã 馬. Tên khoa học: Equus
caballus. Nếu ghép vào can chi thì có các năm: Giáp Ngọ, Bính Ngọ, Mậu Ngọ,
Canh Ngọ và Nhâm Ngọ. Ngọ thuộc cực dương vì 12 giờ trưa là giờ Ngọ, tháng
6 là tháng Ngọ cây cối phát triển
nhanh… Loài ngựa gắn bó với con người từ thời Thượng Cổ, con người bắt đầu
thuần dưỡng ngựa vào khoảng 4000-4500 TCN. Khởi đầu ngựa hoang được thuần
hóa ở miền nam nước Nga, nam Sibirien, các miền đông tây Á Châu và từ đó ngựa
phổ biến trên khắp lục địa Á - Âu. Người ta thường nuôi ngựa làm phương tiện
đi xa buôn bán với các bộ lạc khác nhanh chóng, thuận lợi hơn hoặc đi săn bắn
xa và sau đó bắt đầu dùng ngựa tiến hành chiến tranh để cướp đất đai trong
quy mô lớn.
(Bức họa của Holmes Sullivan
William năm 1877 vẽ nữ Bá tước Godiva (Godgifu) cưỡi đi quanh thành phố
Coventry, Anh Quốc năm 1040 để yêu cầu chồng là Bá tước Leofric giảm thuế
cho dân)
Ngựa
trong danh từ khoa học:
Giới (regnum): Animalia
Ngành (phylum): Chordata
Lớp (class): Mammalia
Bộ (ordo): Perissodactyla
Họ (familia): Equidae
Chi (genus): Equus
Loài (species): E. caballus
Chủng tộc ngựa có bốn
nhóm: thoroughbred/Vollblut (giống ngựa nầy ở Á Rãp và Anh Quốc); warmblood/Warmblut;
draft horse/ Kaltblut; ponies /Ponys. Mỗi nhóm, chi có đời sống tập tính
khác nhau như: Ngựa vằn núi Bergzebras (Epuus Zebra), ngựa Quagga (Epuus
quagga), ngựa Onager (Epuus hemionus) thuộc loại nửa ngựa nửa lừa) ngựa
Przewalskipferd (Epuus Przewalskii) ngựa Steppentarpan (Epuus przewalskii
igmelini) ngựa Waldtarpan (Epuus Przewalskì silvaticus) ngựa Westpferd
(Epuus przewalskii robustus); ngựa ở Phi Châu Wildesel (Epuus asinus
africanus); ngựa ở bắc Phi Châu Wildesel (Epuus asinus atlanticus)….Tùy thuộc
vào giống môi trường, thức ăn, nước uống v.v, ngựa có tuổi thọ khoảng 25 đến
30 năm. Ngựa cái mang thai kéo dài khoảng 335-340 ngày. Ngựa con vừa lọt lòng mẹ có thể đứng và đi ngay.
Ngựa bốn tuổi được coi là ngựa trưởng thành, mặc dù chúng tiếp tục phát triển
bình thường cho đến sáu tuổi, thời gian hoàn thành sự phát triển của ngựa
cũng phụ thuộc vào kích cỡ của ngựa, giống, giới tính.Có loại ngựa dài 2.80m
cao 1,5m…..Ngựa ăn cỏ, dạ dày ngựa chỉ có một túi và không thuộc bộ nhai lại
như trâu bò, răng ngựa tốt, ăn và nghiền nhỏ thức ăn, ngựa đực có 40 cái
răng, ngựa cái chỉ có 36 cái. Uống
nước mỗi ngày từ 30-60 lít nước. Tai ngựa rất thính, nhãn quan của ngựa rộng
nhưng chỉ thấy rỏ về phía trước hơn, khuyết điểm không nhìn rõ hai bên, nên
hay hoảng sợ khi nhìn thấy các di động hai bên, bởi vậy người ta dùng hai
miếng da che hai bên mắt để ngựa kéo xe chỉ nhìn thấy phía trước. Ngựa có
nhiều màu như lông màu trắng gọi là ngựa bạch, đen tuyền gọi là ngựa ô, đen
pha đỏ tươi là ngựa vang, đen pha đỏ đậm là ngựa hồng, tím đỏ pha đen là ngựa
tía, trắng sọc đen là ngựa vằn... Về cách đi đứng của ngựa có nhiều động từ
để diễn tả như: đi, bước, rảo, chạy, nhảy, kiệu, phóng, vút, phi (bay), tế,
sải, lao, vọt, phốc, phi nước đại, phi nước kiệu, phi rạp mình, ngựa lồng:
ngựa chạy trung bình mỗi giờ từ 40-50 km, nhưng có thể chạy nhanh đến 90
km/ giờ. Người ta lấy sức ngựa (mã lực) làm tiêu chuẩn tính sức mạnh của động
cơ Kilowatt (1 PS=75 mkp/S; hay 1 PS= 0,735498 KW).
Chân ngựa cũng có nhiều
ngón, nhưng chỉ có một ngón giữa phát triển to ra, trên đầu ngón có một cái
móng bằng chất sừng bao bọc ở mặt ngoài của móng ngựa, chất sừng rất dày cứng,
nó gắn chặt với xương ngón chân, nhưng phần phía trong của móng là chất sừng
mềm có tính đàn hồi co giãn được, nó có tác dụng làm giảm xung lực từ mặt đất
khi ngựa bước đi. Vì móng ngựa là chất sừng cứng, khi ngựa đi lại trên đất,
đá lâu ngày, lớp sừng bảo vệ bên ngoài sẽ bị mòn đến lớp sừng mềm bên
trong. Ngựa bị đau chân không thể chạy
nhảy kéo xe được Vì thế người ta
đóng móng cho ngựa để bảo vệ cho móng không bị mòn. Có thợ chuyên môn rèn sắt
đo ni lấy một cái vành bằng sắt có đục lỗ sẵn đóng móng cho ngựa, đã được
sáng chế từ thời La Mã cổ đại.
Ngựa
trong chiến tranh được gọi là Ngựa chiến hay chiến mã.
Hình ảnh ngựa còn là chủ
đề cho các môn nghệ thuật như hội họa, điêu khắc, thơ văn... Đối với văn
hóa phương Tây, ngựa gắn liền với nhiều biểu tượng thần thoại. Quan hệ giữa
chủ nhân và ngựa không khác gì đôi bạn thân, cùng nhau vào sinh ra tử, xông
pha trận mạc. Bên cạnh chiến binh, ngựa được coi là chiến mã, tượng trưng
cho sự dũng mãnh, thần tốc và lòng kiêu hãnh, các binh chủng kỵ binh, kỵ
mã, kỵ xạ, thám mã trong chiến đấu, săn bắn… Người Ai Cập và Trung Hoa cổ đại
sử dụng xe ngựa kéo, sáng chế ra yên cương và bàn đạp giúp tăng hiệu quả
chiến đấu của chiến mã và giúp cho người cưỡi giữ thăng bằng, ổn định và
không bị ngã ngựa. Các hiệp sĩ trên lưng ngựa mặc áo giáp với một thanh kiếm
hoặc giáo thương, đại đao hoặc các vũ khí đánh xa khác… có sức chống lại mạnh
mẽ và gây
nguy hiểm cho hầu hết các loại lính bộ binh.
Việc sử dụng chiến thuật ổn
định từ ngựa chiến được đóng yên cương và bàn đạp chân đã cho phép người
Mông Cổ có thể tấn công và bắn tên hiệu quả từ trên lưng ngựa (nhất là các
kỵ xạ), đồng thời đem đến cho họ sự linh động để chinh phục phần lớn các
vùng đất đã biết đến trên thế giới. Thành Cát Tư Hãn/Genghis Khan phiên âm
Hán: 成吉思汗 (trị
vì 1206-1227) là người sáng lập ra Đế quốc Mông Cổ. Vó ngựa quân Mông Cổ
tung hoành khắp nơi, nhờ giống ngựa Mông Cổ với vóc dáng có phần nhỏ hơn,
chân ngắn hơn, bờm và đuôi rậm hơn, song chúng ít đòi hỏi chăm sóc, sức chịu
đựng tốt, đặc biệt thích nghi tốt với khí hậu cận nhiệt đới. Quân Mông Cổ đã bành trướng xuống phía Nam, ngựa
Mông Cổ có thể nói là phương tiện duy nhất để di chuyển đại quân từ Á sang
Âu. Vó ngựa Mông Cổ đi đến đâu thì cỏ không mọc được, đến đâu thì bình địa
đến đó, máu chảy đầu rơi, xơ xác. Nhưng đến Việt Nam bị Hưng Đạo Vương đánh
thua chạy dài về nước.
Theo truyền thuyết Đời Hùng
Vương thứ Sáu nổi tiếng và đặc sắc nhất về ngựa là hình ảnh ngựa thần của
Thánh Gióng, cậu bé làng Phù Đổng đã vươn vai thành người lớn
cưỡi ngựa sắt, cầm roi sắt ra trận dẹp tan giặc Ân. Hình ảnh Thánh Gióng cưỡi
ngựa thần bay lên trời tượng trưng cho sự tự do, bất khuất, lòng dũng cảm,
ý chí kiên cường. Tại ngã sáu ở Sài Gòn còn tượng tưởng nhớ Phù Đổng Thiên
Vương.
Ngựa
thành Troia Hy Lạp Cổ đại: Người Hy Lạp sử dụng ngựa trong chiến trận.
Lịch sử Hy Lạp cách đây hơn 3200 năm có chuyện ngựa gỗ
thành Troia. Khi quân Hy Lạp đến bao vây thành Troie (Trojanische Krieg),
dân thành này chống cự mãnh liệt, quân Hy Lạp không thể nào vô thành được.
Theo mưu mẹo của Odysseus/ Odyssey chế ra một con ngựa gỗ rất cao lớn, bên
trong rỗng ruột để quân lính chui vào nấp, sau đó giả vờ bỏ con ngựa lại
chiến trường rồi ra lệnh tất cả thuyền bè rút ra khơi. Dân thành Troia thấy
quân Hy Lạp rút lui, vui mừng kéo nhau ra khỏi thành hì hục đưa con ngựa gỗ
vào bên trong thành như là một chiến lợi phẩm quý giá thu được từ Hy Lạp. Nửa
đêm hôm ấy, quân mai phục từ bụng con ngựa chui ra chém giết lung tung, mở
cửa thành cho quân Hy Lạp tràn vào. Thành Troia thất thủ, vua Priam bị giết,
câu chuyện ngựa gỗ phá thành được chép lại như một thiên anh hùng ca trong
các tiểu thuyết của nhà thi hào Homer. Phim cuộc chiến thành Troia http://bit.ly/1al8CEf
http://bit.ly/1ciDXan
Ngựa
trong đời sống bình dân
Ngựa là gia súc đóng góp
to lớn trong việc mưu sinh và sự phát triển của con người. ngựa đối với người
phương Đông còn là biểu tượng của lòng trung thành, sự kiên trì, nhẫn nại
và cần mẫn. Trong thời bình ngựa giúp chúng ta cày bừa, chuyên chở hàng
hóa, kéo xe, chở người di chuyển trên đường xa, những nơi hiểm trở. Ngoài
ra ngựa là phương tiện di chuyển nhanh nhất thời xưa trong vấn đề liên lạc
thư
tín, công văn …và tạo những niềm vui cho công chúng như đua ngựa, đi săn,
cưỡi ngựa thi bắn tên, làm xiếc thú. Ngựa còn cho ta thịt để ăn và cúng tế,
xương nấu cao ngựa làm thuốc, giúp các nhà y học chế ra các loại huyết
thanh trị bệnh, huyết thanh chống nọc rắn. Viện Pasteur Nha Trang thành lập
từ năm 1895, đến năm 1896 bác sĩ Yersin đã lên vùng Suối Dầu, thành lập một
trang trại chăn nuôi ngựa lấy huyết thanh bào chế vacxin phòng chống bệnh dịch
hạch. Và cũng từ trại ngựa này, Yersin đã sáng chế ra những loại huyết
thanh cổ điển khác như kháng huyết thanh bạch hầu, uốn ván. Cho đến nay, với
hơn 100 năm tồn tại và phát triển, trại chăn nuôi vùng Suối Dầu đã trở
thành một trung tâm sản xuất vacxin lớn trong khu vực, với số lượng thú
nuôi phục vụ nghiên cứu khoa học đứng đầu trong cả nước gồm ngựa, thỏ, chuột
lang, chuột bạch.
Tiếp bước theo công trình
của bác sĩ Yersin, tập thể các cán bộ ở trại chăn nuôi Suối Dầu đã bào chế
ra những kháng huyết thanh mới từ ngựa như kháng huyết thanh trị rạ, trị nọc
độc rắn cắn, mới đây nhất là nghiên cứu phát triển loại kháng huyết thanh
chữa ngộ độc cá nóc cho ngư dân, theo tinh thần mà ngày xưa bác sĩ Yersin
đã đề xướng: nghiên cứu và phục vụ đời sống.
Nhiều giống ngựa đã tuyệt
chủng, nhưng nhiều giống ngựa khác được lai giống to lớn có lông mai và đuôi
dài rất đẹp, hàng năm lễ hội Beer Tháng Mười ở Munich nhiều ngựa to lớn kéo
xe rất đẹp
Ngựa
trong văn chương
Thời xa xưa đời sống hàng
ngày chỉ sử dụng phương tiện di chuyển, kiệu, cán, xe kéo và ngựa. Ảnh hưởng
đời sống nên truyện Kiều của thi hào Nguyễn Du nhắc đến ngựa rất nhiều lần,
hơn 24 câu nói đến ngựa. (1)
Trong đoạn thơ tả cảnh chị
em Thuý Kiều, Thuý Vân đi lễ hội Thanh minh:
Dập
diều tài tử giai nhân,
Ngựa
xe như nước, áo quần như nêm.
Tác phẩm thứ hai có nhắc
đến ngựa là Chinh Phụ Ngâm. vài đoạn thơ liên quan đến ngựa. Nói về nam nhi
trong thời chinh chiến:
Chí
làm trai đặm nghìn da ngựa
Gieo
Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao
Giả
nhà đeo bức chiến bào
Thét
roi cầu vị ào ào gió thu.
Rồi
nàng phải tiễn chàng ra trận, cảnh chia ly thật buồn :
Ngoài
đầu cầu nước trong như lọc
Đường
bên cầu cỏ mọc còn non
Đưa
chàng lòng vợi vợi buồn
Bộ
khôn bằng ngựa, thủy khôn bằng thuyền.
Ngựa liên quan trực tiếp
đến người chinh phu ở nơi xa xăm, chịu dãi dầu sương gió, cùng những hiểm
nguy của chiến trận, bên mình ngựa:
Hơi
gió lạnh người rầu mặt dạn
Giòng
nước sâu ngựa nản chân bon.
Ôm
yên, gối trống đã chồn
Nằm
vùng cát trắng ngủ cồn rêu xanh
Hoặc:
Xông
pha gió bãi trăng ngàn
Tên
reo đầu ngựa giáo lan mặt thành.
Hay là:
Chàng
ruổi ngựa dậm trường mây phủ
Thiếp
dạo hài lối cũ rêu xanh.
Tác phẩm Lục Vân Tiên của
cụ Nguyễn Đình Chiểu cũng có câu nói về ngựa:
Vân
Tiên đầu đội kim khôi
Tay
cầm siêu bạc, mình ngồi ngựa ô.
Tác phẩm Cung Oán Ngâm
Khúc của Ôn Như Hầu cũng có nhắc xa mã:
Mùi
phú quí nhữ làng xa mã
Bã
vinh hoa lừa gã công khanh.
Ngựa vốn là loài vật gắn
bó với con người. Nó nằm trong Lục Súc Tranh Công, 6 loại gia súc nuôi trong nhà như: ngựa,
trâu, bò, dê, chó và heo. Người Á Đông đã thuần hóa thành công 6 loại gia
súc này trước tiên. Bởi vậy có truyện Lục Súc Tranh Công, ngựa cũng tự khen
mình, vừa kể công đánh Nam dẹp Bắc, giúp không biết bao nhiêu tướng tài,
phò trợ xã tắc suốt trong lịch sử:
Ngựa
nghe nói tím gan, tím phổi
Liền
chạy ra hầm hí vang tai
Ớ
này này tao bảo chúng bây
Đố mặt
ai dài bằng mặt ngựa...
Tao
đã từng đi quán về quê
Đã
ghe trận, đánh Nam, dẹp Bắc...
Ngày
ngày chầu chực sân rồng
Bữa
bữa dựa kề loan giá.
Ông
Cao Tổ năm năm thượng mã
Mới
dựng nên cơ nghiệp Lưu gia.
Ông
Quan Công sáu ải vượt qua
Vì cậy
có Thanh Long, Xích Thố...
Các
chú được ăn no nằm ngủ
Bởi
vì ta cầm cán giữ gìn...
Các
chú những nằm trong xó bếp
Tài
các người ở chốn quê mùa
Đừng
đừng buông lời nói khật khù
Bớt
bớt thói chê bai giớn giác …
Trong
tục ngữ ca dao
Được
đầu voi đòi đầu ngựa: nói về người có lòng tham không đáy
Ngựa
chạy có bầy chim bay có bạn: nói lên tinh thần đoàn kết.
Ngựa
Hồ gió bấc hay chim Việt ngựa Hồ: Ngựa xứ Hồ mỗi khi gió
bấc thì hí, chim nước Việt chọn cành phiá nam mà đậu.
Một
con ngựa đau, cả tàu bỏ cỏ: Nói về tình đoàn kết
Mã
đáo thành công: Câu chúc may mắn, thành công
Ngựa
non háu đá: Chỉ những người trẻ tuổi thường có tính
cách hung hăng, thiếu chín chắn
Cưỡi
ngựa xem hoa, chỉ thời gian ngắn đi qua chưa nhìn hết mọi vấn
đề
Ngựa
chứng là ngựa hay: nói những người có tài thường có những tật
xấu
Ngựa
quen đường cũ: Chứng nào tật ấy
Ngưu
tầm ngưu mã tầm mã: Chỉ việc những người giống nhau thường tập
hợp lại với nhay, tìm đến nhau
Đầu
trâu mặt ngựa: Câu này dùng để chỉ những kẻ vô loại, kẻ
đại bất lương.
Thẳng
như ruột ngựa: Nói về việc không úp mở, thẳng thắn vào đề
luôn
Da
ngựa bọc thây: Câu này thời xưa dùng để nói về một người
lính đã ngã xuống trên chiến trường
Đơn
thương, độc mã (một ngựa với một cây thương): Chỉ người một
mình chống lại khó khăn, không có sự trợ giúp của ai, giống câu một mình một
ngựa
Một
lời nói ra bốn ngựa khó tìm (Nhất ngôn ký xuất tứ mã
nan truy): Câu này có nghĩa là một lời nói vô ý khi ra khỏi miệng rất khó
có thể lấy lại được.
Tế
ông mất ngựa: Chỉ trong cái rủi có cái may.
Có mặt
nào dài hơn ngựa, trước pháp đình, tội nhân đứng trước vành móng ngựa. …
Rồng
chầu ngoài Huế, Ngựa tế Đồng Nai
Trong truyện thần thoại Tây Phương con ngựa
cổ nhất là con độc giác là con bạch mã đuôi dài tha thướt như tóc một thiếu
nữ, giữa trán mọc một cái sừng (Einhorn) và xoắn như mũi khoan phát ra ánh
sáng, thêm con ngựa có cánh bay, các loại truyện thần thọai đã dựng thành
phim hoạt hình. Những lăng mộ ở Ai Cập trên những bức phù điêu đều có chạm
trổ hình những con ngựa, Tại Viện bảo tàng ở Cairo chưng bày những chiếc xe
ngựa của các đời Vua được khai quật hơn 3000 năm. Trước sân các Đình Miếu ở
Việt Nam cũng như Trung Hoa thường có tượng đá bằng ngựa…Về Âm nhạc có các
nhạc phẩm được nhiều người thích là: Vết thù trên lưng ngựa hoang, Lý Ngựa Ô…http://bit.ly/1gDp7j7
http://bit.ly/KYkWnE
Ở Trung Hoa, có dòng họ Mã lấy theo tên ngựa,
trong đó có nhiều người nổi danh như Mã Viện, Mã Đằng, Mã Siêu, Mã Anh Cửu,
Mã Gián Sinh, Mã Bé… Ngoài ra thêm nhiều chuyện như „trảm mã trà„ cho ngựa ăn
trà chém đầu mổ bụng lấy trà sao chế để uống, hay chuyện cho ngựa bạch lên
núi cao tìm cỏ Phương Chi mọc trên đá cho ngựa ăn lúc mặt trời vừa mọc, ăn
xong cũng chém đầu mổ bụng lấy bao tử mang về chế thuốc phơi khô trị bệnh,
bà Từ Hy Thái Hậu khoản đãi khách quý dùng loại thuốc đó nấu với Long Tu.
Dược
thảo mang tên ngựa
Trong
các dược liệu cổ truyền, hai khái niệm ngựa và mã thường được sử dụng để chỉ
tên nhiều vị thuốc có giá trị, thậm chí là tên của nhiều họ cây thuốc. Xin
giới thiệu một số thảo dược chính có liên quan đến hai khái niệm này.
Mã tiên thảo hay còn gọi
là cỏ roi ngựa (Verbena officinalis L.), họ cỏ roi ngựa (Verbenaceae),
trông hình dáng giống như cái roi ngựa. Vị thuốc là bộ phận trên mặt đất,
thu hái lúc cây sắp ra hoa, phơi khô hoặc sấy khô, với liều 6 - 12g dùng trị
các bệnh sốt rét, lỵ, ngứa lở hạ bộ, sưng đau tuyến vú, mụn nhọt, bế kinh,
khí hư bạch đới.
Mã kế còn gọi là đại kế
(Circus japonicus (DC.) Maxim), họ Cúc (Asteraceae), dùng toàn cây. Vị thuốc
có vị ngọt, đắng, tính mát. Trị thổ huyết, máu cam, trĩ ra máu, tiểu tiện
ra máu, băng huyết, chấn thương chảy máu. Khi dùng để cầm máu thường được
sao đen. Trị băng huyết và kinh nguyệt quá nhiều
Mã xỉ hiện còn gọi là rau
sam (Portulaca oleracea L.), họ Rau sam (Portulacaceae), mọc hoang hoặc được
trồng để làm thuốc hoặc làm rau ăn. Có thể dùng tươi hoặc khô để trị lỵ trực
khuẩn, giun kim, dưới dạng nước sắc 15 - 20g ngày. Dùng ngoài, trị ngứa lở,
nước ăn chân, lấy cây tươi rửa sạch, giã nát, chấm vào chỗ bị bệnh, ngày 1
- 2 lần sau khi đã rửa sạch chỗ bị bệnh và lau khô
Mã đề còn gọi là Xa tiền
thảo (Plantago major L.), họ Mã đề (Plantaginaceae). Hai chữ mã đề là ám chỉ
“móng chân của con ngựa”. Mã đề cho nhiều vị thuốc hay, toàn cây có tác dụng
lợi tiểu, lợi mật, chống viêm loét, trừ đờm, chống ho, chống lỵ...Dùng trị
bí tiểu, tiểu vàng, đỏ, tiểu ra máu, sỏi đường tiết niệu, viêm gan, mật...Từ
mã đề có thể thu được các vị thuốc: bông mã đề, cụm hoa, hạt mã đề (xa tiền
tử) có cùng tác dụng: lợi tiểu, lợi mật...
Mặt khác, xa tiền tử còn
chứa nhiều chất nhầy, có khả năng bao phủ các vết loét, nhất là ở dạ dày,
tá tràng. Do vậy, vị thuốc này cũng như tịch chiết lá tươi của nó được dùng
để trị viêm loét dạ dày, tá tràng rất tốt
Mã đề nước còn gọi là Trạch
tả (Plantago plantago- aquatica L. tên đồng danh Alisma orientalis Sam. Juzep.), họ Trạch tả
(Alismataceae). Gọi là mã đề nước vì lá của cây trạch tả trông rất giống với
lá của cây mã đề, song cây này lại mọc ở dưới ruộng nước. Y học cổ truyền
dùng thân rễ của Trạch tả hàng năm thu hái vào khoảng tháng 4 - 5 để làm
thuốc chữa bệnh phù thũng, viêm thận, viêm bể thận, tiểu tiện khó khăn, đái
ra máu .
Cá ngựa hay hải mã là tên
gọi chung của một chi động vật sống ở đại dương tại các vùng biển nhiệt đới.
Cá ngựa có chiều dài 15 cm có loài dài đến 30 cm. Cá ngựa là cá biển thuộc
chi Hippocampus và họ Syngnathidae vùng nước nhiệt đới và ôn đới ở khắp nơi
trên thế giới. Đông y thường dùng hải mã khô trong những than thuốc nấu uống
hay để ngâm rượu uống bổ dương. Khoa học chưa có tài liệu nào cho biết thành
phần hóa học tác dụng dược lý?.. Cá
ngựa và cá chìa vôi là 2 chi cá đặc biệt ở chỗ con đực "mang
thai" và sinh con. Thời gian mang thai từ 2-3 tuần. Nó có vây ngực ở
phía trên gần mang và vây lưng nằm phía dưới cơ thể. Một số loài cá ngựa có
một phần thân thể trong suốt nên rất khó nhìn thấy.
Năm Quý Tỵ đã qua nhiều
biến đổi, hy vọng năm Giáp Ngọ đến “mã
đáo thành công“ sẽ đem lại Tự Do, Dân Chủ cho Việt Nam. Không còn bọn „đầu trâu mặt ngựa“ đàn áp đánh đập
người dân biểu tình chống Trung cộng xâm chiếm biển đảo tịch thu ghe tàu, đánh
đập ngư dân Việt Nam. Kính chúc thân hữu và quý độc giả năm mới bình an, thân
tâm an lạc, may mắn và hạnh phúc .
Nguyễn Quý Đại
www.hoamunich.wordpress.com
Tài liệu tham khảo
Tiere und Lebensräume (Das grosse Volks-
Lexikom ) Bertelsmann.
Das neue Universal Lexikon
Thơ văn hình trên Internet và trang
Wikipedia
Đọc
thêm
1/ Kim Trọng xuất hiện và gặp mặt Kiều lần đầu, chàng
cỡi ngựa:
Tuyết
in sắc ngựa câu dòn,
Cỏ
pha mùi áo nhuộm non da trời.
Nẻo
xa mới tỏ mặt người,
Khách
đà xuống ngựa, tới nơi tư tình.
Khi hai chị em Kiều sắp
chia tay Kim Trọng, ngựa lại được nhắc đến:
Bóng
tà như giục cơn buồn,
Khách
đà lên ngựa người còn ghé theo.
Mã
Giám Sinh, vội vàng ra đi bằng ngựa:
Đoạn
trường thay lúc phân kỳ
Vó
câu khấp khểnh, bánh xe gập ghềnh.
Nàng
càng thổn thức gan vàng,
Sở
Khanh đã rẽ dây cương lối nào!
Thúc Sinh, lúc chia tay
cùng Kiều vào một mùa thu để về nhà thăm vợ nhà „Hoạn Thư“ cũng đã ra đi bằng ngựa:
Người
lên ngựa, kẻ chia bào,
Rừng
phong thu đã nhuộm màu quan san.
Khi Thúc Sinh đã ra đi rồi,
có một nhóm ác nhân “đầu trâu mặt ngựa” đến đốt nhà nơi Kiều đang cư ngụ.
Trong lúc bất tỉnh vì thuốc mê, Kiều đã bị bắt cóc đem đi bằng ngựa:
Thuốc
mê đâu đã tưới vào,
Mơ
màng như giấc chiêm-bao biết gì!
Vực
ngay lên ngựa tức thì,
Phòng
đào, viện sách, bốn bề lửa dong.
Từ Hải người đã giúp Kiều
trả oán, báo ân, và đưa Kiều lên chỗ cao sang nhất của cuộc đời Kiều, cũng
dùng ngựa. Đó là lẽ dĩ nhiên vì Từ Hải là một võ tướng:
Trông
trời, trời bể mênh mang,
Thanh
gươm, yên ngựa, lên đàng thẳng dong.
Khi cho quân lính rước Kiều
về phủ đường một cách rất long trọng, Từ Hải đã tự mình cỡi ngựa ra ngoài để
nghênh đón Kiều:
Kéo
cờ lũy, phát súng thành,
Từ
công ra ngựa thân nghênh cửa ngoài.
Và gần đến cuối của câu
chuyện gian truân đời Kiều, người em trai của Kiều và người tình đầu tiên
đã được làm quan Cả hai đã dùng xe ngựa:
Sắm
sanh xe ngựa vội vàng,
Hai
nhà cùng thuận một đường phó quan.
Thành ngữ “đầu trâu mặt
ngựa” để chỉ những người không lương thiện bắt nguồn từ Kiều:
Người
nách thước kẻ tay dao
Đầu
trâu mặt ngựa ào ào như sôi.
Thành ngữ “làm thân trâu
ngựa” để đáp đền ơn sâu cũng ở trong Kiều mà ra:
Tái
sinh chưa dứt hương thề
Làm
thân trâu ngựa đền nghì trúc mai.
|