Mùa Vọng và
Giáng Sinh
“Vinh
danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm”
Nguyễn
Quý Đại
Từ
thuở xa xưa con người đã tin theo chu kỳ hằng năm 25.12 là ngày mặt
trời trở lại vòng luân chuyển. Người Ai Cập với nền văn hóa Isis tin
là sinh nhật của Horu vào ngày này, người Ấn Độ mừng Thần Ánh Sáng.
Người Roma bắt đầu lễ kính thần Mặt Trời Sarturnalien và thần Thổ
Tinh Saturn, người Germanen từ vùng Bắc Đức đến các nước Bắc Âu cử
hành lễ "Giữa Đông" (Mittwinterfest) hay Julfest. Người Roma cũng
như Á Châu hay Ai Cập đều tổ chức những ngày lễ hội dân gian khác
nhau. Về niên lịch và thánh kinh không ghi rõ ngày nào Thiên Chúa
xuống thế làm người, bởi vậy ngày Chúa giáng sinh có nhiều khác biệt,
Cơ Đốc giáo dựa theo lịch Gregory thì cho là ngày 7 tháng Giêng.
Từ
năm 353, thời vua La Mã Constantino, chọn ngày 25.12 làm lễ Giáng
sinh và năm 354, Đức Giáo Hoàng thứ 26 là Liberius (trị vì từ
17.5.352 đến 24.9.366) Ngài chính thức mừng lễ Giáng sinh vào ngày
25.12. Công đồng Konstantinopel quyết định công khai vào năm 381.
Dựa vào lời kinh Cựu ước đã loan báo Đấng cứu độ là "Mặt Trời Công
Chính" (Mal 3,20), Chúa Giêsu cũng tự ví mình là "Ánh sáng trần gian"
(Ga 8,12), là "ánh sáng thật soi chiếu mọi người" (Ga 1,9) đã đến
trần gian. Ngày Giáng sinh của Chúa là lễ "Thần mặt trời bách chiến
bách thắng". Người Kitô cũng muốn loan báo cho người khác biết: Mặt
trời thì tốt, và chúng tôi cũng vui như các bạn về chiến thắng của
mặt trời. Nhưng mà mặt trời tự nó không có ánh sáng, nó chỉ có ánh
sáng là do Thiên Chúa tạo dựng và ban cho. Qua đó mặt trời báo cho
chúng ta ánh sáng thật, ánh sáng từ Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa của mọi
loài thụ tạo. Ngài là nguồn của tất cả ánh sáng, không như mặt trời
chỉ là công trình tạo dựng của Thiên Chúa, vì nó chỉ là một vật
không có sự sống nếu không có Thiên Chúa. Đây là ý nghĩa của ngày lễ
Giáng sinh. Ngày sinh của Chúa Kitô, ngày mặt trời đổi vòng luân
chuyển trong mùa đông của lịch sử thế giới, ngày cho chúng ta tin
tưởng trong những bước thăng trầm của lịch sử quyền lực của tối tăm.
Ngay từ thời Cựu ước, nhân loại đã mong đợi Đấng Cứu Thế ra đời..Đức
Chúa Cha đã để con một của ngài là Chúa Giêsu Kitô xuống thế làm
người tại Belem cách đây hơn 2000 năm. Ngài đến trong mầu nhiệm
giáng sinh của Giáo hội. Ngài đến để xét xử kẻ sống và kẻ chết, ban
cho chúng ta những ân sủng.
Vòng
hoa Mùa vọng
Mùa Giáng sinh bắt đầu với 4 tuần mùa vọng từ ngày Chúa nhật
Adventsonntag ngày 27 cuối tháng 11 hay ngày 3 tháng 12 và chấm dứt
vào đêm 24.12 Heiligen Abend. Danh từ Mùa Vọng bắt nguồn từ tiếng La
Tinh "Adventus"/Ankunft",
có nghĩa là đến. Theo tài liệu, mùa vọng đầu tiên được tổ chức tại
thành phố Ravenna Ý vào thế kỷ thứ 5. Đến thế kỷ thứ 6 thời Đức giáo
hoàng Gregor, mùa vọng có 6 Chúa nhật đến lễ ba Vua, nhưng đến thời
Đức Giáo hoàng Pius V, mùa vọng chỉ còn 4 Chúa nhật.
Mỗi
quốc gia có phong tục khác nhau. Ở Đức, Chúa nhật Mùa vọng thứ nhất
(Adventsonntag) thường treo giữa nhà Thờ, hoặc để trên bàn cái vòng
hoa gọi là vòng hoa mùa vọng (Adventkranz). Mục sư Tin lành Johann
Heinrich Wichern (1808-†1881) ở Hamburg, giúp cho các em mồ côi,
lang thang ngoài đường phố ăn xin, ông sửa lại căn nhà của mình gọi
là “Rauhe Haus/Roughens house” đem nhiều em từ ngoài đường trong mùa
đông giá lạnh về nuôi dưỡng, cho học nghề, trở thành thợ làm giầy,
thợ sơn nhà cửa, thợ may hoặc làm vườn. Từ đó các em thoát khỏi kiếp
ăn xin có thể tự lập được,
Lần
đầu tiên mùa Vọng ở Đức năm 1839 sử dụng „Advantkranz“ trong phòng
lớn nhà “Rauhe Haus“ của mục sư Johann, mỗi ngày thắp một cây nến,
trên khung gỗ hình tròn có 4 cây nến lớn màu đỏ, và 19 cây nến nhỏ.
Cho đến đêm Giáng sinh căn phòng rực sáng, ánh sáng nến tượng trưng
cho Chúa Kitô, ánh sáng trần gian. Những năm sau người ta trang trí
thêm những nhánh thông xanh, từ năm 1860 có sự thay đổi vòng hoa
hình tròn là những nhánh thông xanh, 23 cây nến gom lại còn 4 cây
tượng trưng cho 4 tuần cho sự chờ đợi ngày Chúa ra đời. Vì thế là
vòng hoa mùa vọng ra đời lần đầu tiên được treo trong nhà thờ ở Köln
năm 1925 cho đến năm 1935 phổ biến rộng rãi khắp nơi. Vòng hoa đường
kính lớn nhỏ khác nhau, phần trong làm bằng rơm khô, chung quanh bọc
lá thông xanh tượng trưng cho sự sống muôn đời. Nhiều gia đình gắn
thêm trái hồ đào trên vòng hoa tượng trưng cho sự sống lại và những
hoa trái tiêu biểu cho lương thực dồi dào của đời sống Kito hữu. Bốn
cây nến này được lần lượt thắp lên mỗi tuần ý nghiã hướng chúng ta
về với ánh sáng tránh xa tội lỗi.. Mùa vọng nói lên niềm vui như
Thánh Phao lô kêu gọi: Hãy vui lên... vì Chúa đang đến!
Từ
đầu tháng 12, tại Ðức có chợ (Weihnachtsmarkt/ Chriskindlmarkt)
không có hoa mai, hoa anh đào như chợ tết Việt Nam, phần lớn trong
mùa Gíang sinh bán thông xanh cao đến 2m50, (Weihnachtsbaum/
Christmas tree), nhiều loại bánh, trái cây, hàng thủ công nghệ, trái
châu để trang điểm cho cây thông, đặc biệt bán rượu nho đỏ
“Christkindl Glühwein” hâm nóng bốc khói mùi thơm ngon. Về chiều 16
giờ trời đã tối, chợ rực rỡ ánh đèn màu rất đẹp, các cửa hàng bán
qùa tặng đều có người gói hàng rất nghệ thuật, đẹp mắt miễn phí cho
khách hàng
Hình
ảnh quen thuộc nhất trong mùa Giáng sinh là ông già Noel trẻ em rất
thích và mong đợi. Ông mặc quần áo đỏ, đội mũ đỏ kiểu xứ lạnh, đi
giầy đen, tóc bạc phơ và râu trắng như tuyết. Theo truyền thuyết,
ông già Noel xuất hiện từ thế kỷ thứ 3 sau Tây lịch. Ông chào đời
tại quận Patara thuộc phần đất của Thổ Nhĩ Kỳ, sau khi được phong
thánh mới có tên là Nikolaus. Ngày 6 tháng 12 đi phát qùa cho trẻ em,
nhưng phải phân biệt Nikolaus và Weihnachtsmann/ Santa Claus. Thế kỷ
thứ 10 đời nữ Hoàng Thephanu gốc Hy Lạp, là vợ Hoàng Ðế Otto II của
Ðức để nhớ thánh Nikolaus nên từ năm 1555 tại Ðức nguời ta may áo
quần màu đỏ, đội tóc trắng, mang râu, giả làm Nikolaus, hình ảnh
Nikolaus xuất hiện trở lại với ý nghiã mang tình thương đến với mọi
người.
Weihnachtsmann xuất hiện từ năm 1933 do quảng cáo của hãng Coca
Cola. Hình ấy được thấy trên màn ảnh Tivi suốt muà Giáng sinh.
Ông
già Noel theo tiếng Pháp là Père de Noel, tiếng Anh là Nicholas,
tiếng Hòa-Lan là Sinterklass. Theo tài liệu, trước khi được phong
thánh, ông Nikolaus là người giàu có lòng nhân từ, đêm Giáng sinh
ông được Thiên chúa mặc khải, đem hết của cải riêng mình ban phát
cho những người nghèo khổ và trẻ con. Ông biến những giấc mơ của họ
thành sự thực, bằng cách mua quà bánh để biếu những kẻ nghèo khổ,
mang lại cho họ những sung sướng bất ngờ.
Có
tài liệu khác cho biết ông già Noel được phong Giám mục vào thế-kỷ
thứ 3 sau Tây lịch. Khi được phong thánh, Nikolaus trở thành người
đỡ đầu của các thương nhân, thủy thủ và trẻ con. Ông qua đời vào
ngày 6/12 không nhớ năm. Ngày 6/12 hàng năm để tưởng nhớ lại hình
ảnh người đạo đức, giàu lòng nhân từ bác ái, hình ảnh người mặc áo
màu đỏ của Nikolaus thuở nào, đến từng nhà có trẻ con thăm viếng,
chia bánh kẹo trong đêm Giáng sinh. Ông già Noel trở lại trần gian,
theo đường ống khói lò sưởi vào mỗi gia đình, để đồng tiền hay bánh
kẹo vào trong chiếc vớ hay chiếc giày cho trẻ con treo gần giường
ngủ hay lò sưởi, đem lại giấc mơ đẹp với tuổi thơ. Bởi thế Cha mẹ
thường mua qùa bỏ vào đôi vớ để cạnh lò sưởi, lúc trẻ con thức dậy
vui mừng với món quà của ông già Noel tặng. Phong tục này khuyến
khích trẻ em nên làm điều thiện để được ông già Noel tặng quà
Ðêm Thánh vô cùng / Heiligabend /silent night
Chúa
sinh ra trong máng cỏ nghèo hèn, để lại cho nhân loại lịch sử suy
niệm, từ đó hàng năm tín đồ Thiên Chúa Giáo cử hành lễ Giáng sinh
rất long trọng khắp nơi trên thế giới, để tưởng nhớ ngày Chúa ra đời
ở thành Bêlem/Bethelem. Sự nhập thế của Chúa Hài đồng có những hiện
tượng lạ theo sự hướng dẫn của ngôi sao kỳ diệu, Vua các vùng lân
cận đã tìm đến là ngày lễ ba Vua mùng 6 tháng Giêng. Tín đồ trên thế
giới đều thờ kính con một của Chúa Cha, xuống thế làm người và chịu
chết trên cây Thánh giá. Thánh lễ Giáng sinh đêm 24 tháng 12 hàng
năm có vô số những bài ca, người ta còn nhắc nhở đến những bài thánh
ca bất hủ, trở thành những bài ca quốc tế, dịch ra nhiều thứ tiếng.
Jingle Bells (Chuông Reo Vang)
Jingle Bells có lẽ là nhạc phẩm nhiều người biết, không thể thiếu
được trong mùa lễ Giáng sinh. Nhạc phẩm nầy được nhạc sĩ Nguyễn Duy
đặt lời Việt trở thành một bài hát với tiếng lục lạc leng keng trên
cổ ngựa, tiếng chuông giáo đường vang vang.
Một
trời sáng trong an lành, và một vùng tuyết ôm cây cành, một ngày
sáng bao la tình, một nỗi sướg vui hồi sinh. Mừng ngày Chúa sinh ra
đời, người người đó đây vui cười, rộn ràng hỉ hoan chào đón Ngôi Hai
Thiên Chúa giáng sinh cho đời. Chuông mênh mông, chuông mênh mông,
chuông giáo đường ấm cúng. Chuông thanh thanh, chuông thanh thanh,
tiếng chuông xe chạy nhanh (ớ). Chuông vang vang, chuông vang vang,
chuông báo mừng đêm thánh. Chuông ngân ngân, chuông ngân ngân, ôi
tiếng chuông trong tim mình.
Bài
thánh ca "Đêm Thánh Vô Cùng" tác giả là Cha xứ Joseph Mohr (1792 †
1848) viết lời và nhạc do thầy giáo Franz Xaver Gruber(1787-†1863)
soạn. Lần đầu tiên bản thánh ca này được hát vào ngày 24.12.1818.
Cha Mohr sinh tại Salzburg Áo. Sau khi chịu chức linh mục năm 1815,
cha về làm việc tại nhà thờ St. Nikolaus Oberndorf Đức. Bài thánh ca
Weihnachtslied "Stille Nacht! Heilige Nacht! Silent Night/ Đêm Thánh
Vô Cùng" ra đời và được hợp ca với một cây đàn nhỏ phụ họa, đó là
bài thánh ca bất hủ.
“Đêm thánh vô cùng giây phút tưng bừng. Đất với trời xe chữ đông;
Đêm nay Chúa con thần thánh tôn thờ. Canh khuya giáng sinh trong
chốn hang lừa, ơn châu báu không bờ bến, Biết tìm kiếm của chị đến.
Ôi Chúa Thiên đàng cam mến cơ hàn, nhấp chén phiền vương phong
trần,Than ôi Chúa thương người đến quên mình bỏ vô chốn quê nhà lúc
sinh thành. Ai ham sống trong lạc thú. Nhớ rằng chuá đang đền bù.
Tinh tú trên trời. Sông nuí trên đời với Thánh Thần mau kết lời, Cao
rao Hóa công đã khéo an bài. Sai con hiến thân mong cứu nhân loại.
Hang chiên máng rêu tạm trú bốn bề tuyết sương mịt mù”.
Chọn
đêm 24/12 vui mừng ngày Chúa ra đời. Người Việt Nam mừng Giáng sinh
như người Tây phương, sau khi dự thánh lễ, gia đình công giáo Việt
Nam vẫn giữ tục ăn "Réveillon" nửa đêm. Thời tiết ở Việt Nam ấm áp
nên Thánh lễ đêm 24 đông người tham dự, người không theo Thiên chúa
cũng ra đường vui chơi, từ nhà Thờ, trên phố đông người “dập dìu
tài tử giai nhân, ngưạ xe như nước áo quần như nêm”.
Ở
Huế khu Phú Cam, nhà Thờ cao với ngôi sao lộng lẫy, hang đá sáng
trưng tỏa ra từ những cây nến trắng. Đà Nẵng khu Thanh Bồ, Đức Lợi
phần lớn người Bắc di cư tổ chức Giáng sinh rất lớn. Thánh lễ cử
hành trước nhà Thờ Chánh tòa đường Độc Lập rất trang nghiêm. Sài Gòn
từ Vương cung Thánh Đường nhà thờ Đức Bà đến Dòng Chúa Cứu Thế, nơi
nào cũng đông người tham dự. Ngày xưa (1975) thời chiến tranh trên
lý thuyết hai bên đều ngưng bắn mừng Giáng sinh. Ở Đức đêm 24 là đêm
của gia đình, đường phố vắng lặng dưới bầu trời lạnh buốt cùng tuyết
trắng. Người Tây phương mừng Giáng sinh trong 3 ngày từ chiều 24 và
ngày 25, 26 tháng 12, ngoại trừ Hy Lạp Griechenland/ Greece theo Cơ
Đốc Giáo làm lễ Giáng sinh ngày 6 tháng giêng, ở Hy Lạp không có
Nikolaus nhưng có Thánh Vassilius. Đêm mùng Một tết, Vassilius để
qùa tặng trên giường ngủ cho trẻ em. Xứ Armenien/ Armenia thì lễ
Giáng sinh ngày 18/19 tháng giêng.
Ở Đức ngày 24 làm việc buổi sáng, 14 giờ các siêu thị đóng
cửa, hãng xưởng nghỉ việc, đường phố về chiều yên lặng cho đến tối
silent night. Phần lớn miền nam Đức theo Thiên Chúa giáo, đi đâu
cũng thấy nóc nhà thờ hình giống như củ hành, nhiều Giáo đường theo
kiến trúc cổ, đồ sộ trải qua hàng ngàn năm Từ thế kỷ thứ 8, người
Ðức đã mừng lễ Giáng sinh, tối 24 các nhà Thờ đều có thánh lễ, sau
Thánh lễ họ về nhà gia đình vui chơi bên cây thông, hang đá nhấp
nháy đèn màu, dưới gốc thông là những gói qùa để tặng nhau. Tiệc đêm
Giáng sinh “Reveillon” theo truyền thống gia đình Đức thường
ăn ngỗng quay, tiếng Đức gọi là ”Weihnachtsgans“, họ ít ăn gà
tây nướng như lễ Tạ ơn “Thanhsgiving“ của người Mỹ. Ngoài ra
có các lọai bánh hình ngôi sao, các tượng Thiên thần, hình ông già
Noel và những thứ bánh gọi là Weihnachtstollen, Weihnachtgebäck...
và rượu nho, giống như Tết của người Việt Nam phải có các loại mứt
hạt dưa, bánh chưng, bánh tét…
Tuy
nhiên ở vùng quê người Đức họ giữ tập quán, dù tuyết rơi giá lạnh
nhưng nhà Thờ làm lễ lúc 22 giờ cho đến khuya, nhiều nhà không ăn
tiệc nửa đêm, nhưng ngày 25 và 26 đại gia đình đoàn tụ trong những
bữa tiệc không riêng gì ngỗng quay, còn những món khác do các bà
khéo tay trổ tài trong dịp nầy. Những người lớn tuổi như ông bà nội,
bà ngọai phát quà cho các cháu (giống như tục “lì xì“ của người Việt
trong dịp tết) sau đó mọi người trao quà cho nhau. Người Đức vui
chơi tiệc tùng suốt ngày 25 và 26 thời gian nầy gặp nhau người ta
thường chúc “Frohe Weihnachten und ein gutes Neues Jahr“ chúc
mừng giáng sinh và năm mới tốt đẹp.. Người Đức trọng ngày Giáng
sinh hơn tết, ngược lại người Việt trọng ngày mùng Một tết. Đó cũng
là sự khác biệt về quan niệm sống giữa Đông phương và Tây phương.
Miền New England dân chúng ăn tiệc mừng Giáng Sinh theo
người Anh. Trong bữa ăn "Réveillon" luôn luôn tổ chức trọng thể có
một loại rượu đặc biệt, chế bằng nước trái cây ép với vài hương liệu
Đông Phương như đinh hương đậu khấu và rượu nho. Thứ rượu đặc biệt
trên phải hâm nóng, uống như rượu saké của Nhật. Người Island mùa
Vọng từ ngày 12 đến 24, mỗi ngày thường bỏ những món quà nhỏ trong
chiếc giày tượng trưng qùa của Nikolaus dành cho trẻ con. Chiều 24
bắt đầu bữa tiệc mừng Giáng Sinh, sau đó họ đi thăm nghiã trang mang
đến những tràng hoa và đốt nến trên mộ phần người thân. Ở Ý Italy họ
không dùng cây thông trang điểm cho mùa Giáng sinh, nhưng họ làm
hang đá và ăn tiệc đêm 24. cho đến lễ Ba Vua 6.1, họ bỏ kẹo bánh
vào chiếc vớ hay giày làm qùa cho trẻ con. Người Tây Ban Nha Spanien/Spain
và Bồ Đồ Nha/Portugal chỉ tặng qùa vào lễ Ba vua. Hòa Lan
Niederlande/Netherlands từ 6/12 hàng năm họ tổ chức rước lễ lớn ở
hải cảng Amsterdame và trong đêm giao thừa, các gia đình mang ra
đường đốt những cây thông (Christbäume) cùng với tiếng pháo tống cưụ
nghinh tân. Vùng Đông âu giá lạnh như Schweden/Sweden mùa Giáng sinh
cũng là ngày chí điểm (Sonnenwende/solstice) khởi điểm muà Đông và
Jul-Fest. Chiều 24 sau 15 giờ trời sẩm tối, qùa tặng Giáng sinh là
các con dê đực bằng rơm và lò sưởi họ đốt than củi từ 24.12 đến 6.1
chấm dứt Giáng sinh vào ngày 13 cũng là ngày Thánh Knut. Họ ném
những cây thông qua cửa sổ; đó cũng là một phong tục.
Người Mỹ đoàn tụ gia đình ngày thứ năm cuối tháng 11 mừng
Thanksgiving/ Danke schöne hàng năm, để tạ Thượng Đế, tạ ơn đời và
ơn người cùng ân phúc của trời đất, trong đêm Giáng sinh mọi gia
đình cũng tổ chức ăn uống, trao đổi quà tặng cùng những lời chúc tốt
đẹp.
Hạt Dẻ
Một dĩa đầy màu sắc với những hạt dẻ và bánh giáng sinh
thì không thể thiếu trong bầu khí lễ Giáng sinh tại Đức. Những hạt
dẻ Walnuesse được nhập cảng từ Pháp, Haselnuesse từ Ý, Hy Lạp, Tây
Ban Nha và Thổ Nhĩ Kỳ, từ Ba Tây có những hạt dẻ Paranuss ba cạnh.
Dù là hạt dẻ nào chăng nữa, chúng có chung một đặc điểm, đó là chúng
có vỏ cứng và nhân ngọt bùi. Những hạt dẻ cho chúng ta nhận ra biểu
tượng: Chúa ban cho chúng ta đời sống, nhiều khi vỏ của đời sống
thật cứng, nhưng muốn nếm được sự ngọt bùi bên trong của đời sống,
mỗi người phải tự mở ra, phải bẻ chiếc vỏ cứng đó ra. Hạnh phúc thay
ai có kềm để bẻ hột dẻ trong tay.
Bánh Stollen
Dù
với tên gọi Stolle hay là Stollen có từ năm 1330, bánh này không thể
thiếu trong các loại bánh của mùa giáng sinh. Hình thức của bánh
ngày nay nhắc lại những trẻ nhỏ đã bị giết tại Bethlehem và cuốn
trong khăn. Vì lý do này mà trong thời trung cổ người ta không cắt
bánh trước ngày 28 .12.
Lễ Hiển Linh
"Hiển linh" là ý nghĩa từ chữ Hy Lạp "Epiphanias", nói lên
ý nghĩa sự hiển linh của Thiên Chúa. Lễ Chúa hiển linh là lễ lớn thứ
hai trong mùa giáng sinh. Lễ Hiển Linh còn được gọi là lễ ba vua, lễ
của ba nhà đạo sĩ hay ba nhà thông thái từ phương Đông đã theo ánh
sao tìm đến thờ lạy Chúa. Ba nhà đạo sĩ: Caspar, Melchior và
Balthasar vì đã trải qua một đoạn đường dài từ phương Đông đến
Bethlehem nên được chọn làm bổn mạng của những người du hành. Hài
cốt ba vua đã được chuyển từ Phương Đông đến Koeln năm 1163 và nhà
nhờ chính toà tại Koeln đã được xây dựng để kính các ngài. Hài cốt
các ngài đã trở thành động lực cho nhiều vở kịch về Ba Vua trong các
xứ đạo và tu viện. Từ đó cũng phát sinh ra Sternsinger, những thanh
thiếu niên hóa trang thành ba vua và đi hát từ nhà này sang nhà khác
vào dịp lễ Ba Vua để quyên tiền cho các trẻ em nghèo trên thế giới.
Cây thông
Mùa
đông giá lạnh, cây cối đều rụng lá trơ trọi đọng lại những cánh hoa
tuyết trắng, chỉ có các loại thông cành lá vẫn còn xanh đẹp. Để có
sự hoà hợp con người và thiên nhiên, hơn 500 năm trước trong mùa
Giáng sinh, người ta dùng thông làm cây Christbaum, thông xanh tươi,
có mùi thơm màu xanh biểu tượng cho sự sống. Nến mang đến ánh sáng
hy vọng. Lần đầu tiên ở Đức năm 1419 trước tiệm bánh ở Freiburg dựng
cây thông trên cành treo nhiều trái cây, bánh cho tới ngày Tết trẻ
em có thể lấy ăn. Cuối thế kỷ thứ 16 cây thông được trang trí trong
phòng khách treo nhiều trái cây, kẹo bánh. Cho đến năm 1730 trên cây
thông có thêm những cây nến, năm 1830 treo thêm những trái châu „Christbaumkugeln“.
Thành phố Berlin năm 1785, thủ đô Wien năm 1816 đã dựng những cây
thông trong mùa Giáng sinh. Thế kỷ thứ 18 cây thông càng được phổ
biến rộng rãi khắp nơi, bắt đầu năm 1819 ở nhà trắng “Weißen Haus”
Hoa Kỳ đã có cây thông trong mùa Giáng sinh tươi đẹp rực rỡ ánh đèn
màu, cho đến thế kỷ thứ 19 được thế giới biết đến. Sau nầy người ta
còn sử dụng cây có lá xanh đỏ, trang điểm cho đẹp mắt.
Hang đá và máng cỏ.
Die Weihnachtskrippe
Hình
thức diễn tả cảnh Chúa Hài Đồng nằm trong máng cỏ bắt nguồn từ những
vở kịch tôn giáo từ thời Trung Cổ. Ngay từ những thế kỷ đầu sau khi
Chúa giáng sinh có những vở kịch về hang đá, nhưng sau đó bị đi vào
quên lãng. Thánh Phanxicô Assisi trong lần dâng lễ Giáng sinh ngày
24.12.1223 ở gần Roma, ngài đã làm cái máng cỏ với các tượng Chúa
Hài đồng, tượng Đức Mẹ Maria, chung quanh có những con lừa, các
tượng Ba Vua, một số Thiên thần, thánh Giuse. Trên mái nhà có ánh
sáng từ một ngôi sao.
Những khu nhà thờ ở Đức dù có truyền thống lâu đời, nhưng họ không
xây hang đá như những nhà thờ ở Việt Nam. Năm 1807 thành phố München/
Munich làm hang đá, chưng bày chỉ trong ngày lễ Giáng sinh, để mọi
người đều hướng về Chúa nhân từ, cầu nguyện Chúa cứu rỗi cho nhân
loại tránh bớt chiến tranh nghèo đói và độc tài.
“Hát khen mừng Chúa giáng sinh ra đời Chúa sinh ra đời nằm trong
hang đá nơi máng lừa. Trong hang Belem ánh sáng tỏa lan tưng bừng
nghe trên không trung tiếng hát thiên thần vang lừng. Ðàn hát (réo
rắt tiếng hát) xướng ca dư âm vang xa. Ðây Chuá Thiên Toà Giáng sinh
vì ta..Người hỡi (hãy kíp bước tới) Đến xem nơi hang Be Lem). Ôi
Chúa Giáng sinh khó khăn thấp hèn. Nửa đêm mừng Chúa giáng sinh ra
chốn gian trần. Người đem ơn phúc xuống cho muôn dân lầm than...”
Bí ẩn về ngôi sao Bethlehem :
Các
ngôi sao 5 cánh thường xuất hiện rực rỡ đủ mầu sắc trong mùa Giáng
sinh, các nhà thờ đều có treo vô số ngôi sao 5 cánh. Một ngôi sao to
lớn được treo ở chỗ cao nhất của tháp chuông nhà thờ. Từ đó căng
giấy ra bốn phía, có nhiều ngôi sao nhỏ, treo đèn lồng và kết hoa
rất đẹp mắt.
Trong tất cả các tranh ảnh Chúa giáng sinh, trên bầu trời bao giờ
cũng có một ngôi sao sáng, rực rỡ, thánh kinh gọi đó là ngôi sao
Bethlehem đã dẫn đường cho Ba Vua tới hang đá. Ngôi sao này còn có
tên là ngôi sao giáng sinh, một supernova, từ lâu đã là mối tranh
cãi của các nhà thiên văn học. Mới đây Nibel Henbest, một khoa học
người Anh đã dựa vào sự chuyển động của quỹ đạo trong thái dương hệ,
để giải tỏa câu hỏi tại sao chỉ có Ba Vua nhìn thấy ngội sao đó,
trong khi lịch sử thiên văn không ghi nhận được. Theo Nibel thì vào
năm 1604, nhà toán học Johannes Kepler đã tính được vị trí các hành
tinh vào thời Chúa giáng sinh, cũng tìm được sự giao hội đặc biệt
của các chòm sao trong nhóm Song Ngư vào năm thứ 7 trước tây lịch,
có nghĩa là sao Mộc và sao Hỏa, biểu tượng của người Do Thái gặp
nhau trên bầu trời nhưng vẫn cách nhau một khoảng gần bằng đường
kính của mặt trăng. Vài năm sau đó một sự hội ngộ khác lại diễn ra
vào tháng 8 năm 3 trước tây linh, Mộc tinh tiến gần sao Vệ Nữ là một
ngôi sao sáng. Ngày 17-6-2 trước tây lịch, hai sao trên lại gặp nhau
nhưng không va chạm, như tạo thành một ngôi sao lạ, sáng chói khắp
miền Trung Đông mà thánh kinh đã gọi là ngôi sao Bethlehem. Ngoài ra
với người Ky tô giáo xưa thì ngôi sao Vệ Nữ, tức là sao Hôm mọc
trước bình minh, được coi là biểu tượng của Đấng Cứu thế, còn sao
Hải Sư lại được người Do Thái coi là Đấng bổn mạng. Đây là hai ngôi
sao sáng nhất trong thái dương hệ và cái hiện tượng hội ngộ giao
thoa chỉ xảy ra một lần trong hai ba thế kỷ, như giải thích ở trên,
đưọc xem là giả thuyết hợp lý về ngôi sao Bethlehem trong truyền
thuyết.
Người Việt định cư ở Đức khoảng 88 ngàn, ở rải rác khắp nơi. Tại các
thành phố lớn, người Việt đông nên sinh hoạt có tổ chức. Giáo dân
người Việt cũng như các dân tộc khác định cư tại Đức, nếu có Cộng
đồng sinh hoạt đàng hoàng thì được Tòa Tổng Giám mục cấp nhà lớn làm
trung tâm sinh hoạt riêng, có văn phòng làm việc, nhà nguyện và
thánh lễ chiều trong ngày để các cụ đến đọc kinh. Thành phố Munich
thuộc tiểu bang Bavaria miền Nam Đức. Munich và các vùng phụ cận như
Preising, Ausburg sinh hoạt chung thành một Cộng đoàn gọi là giáo xứ
Nữ Vương Hoà Bình cho trang trọng, nhưng thật ra ngưòi Việt mình đâu
có đất có nhà Thờ để thành một giáo xứ riêng biệt. Tín đồ Thiên chúa
giáo khoảng trên dưới một ngàn người. Những thánh lễ lớn, người Việt
phải nhờ các nhà Thờ của giáo xứ người Đức. Sau Thánh lễ là văn nghệ
mừng Giáng sinh rất vui và hấp dẫn qua các tiết mục ca hát, vũ múa,
kịch. Trong dịp nầy cũng như Tết đều có các quầy bán thức ăn đủ loại
với hương vị quê hương, số tiền thu được đều giúp cho trẻ em nghèo
bên quê nhà.
Nói
chung người Việt Nam định cư ở Đức ít nhất cũng hơn 30 năm “nhập
gia tuỳ tục” nên ảnh hưởng ít nhiều văn hoá phong tục Đức. Những
gia đình không theo đạo Thiên chúa giáo cũng mua thông tươi, hang đá
và những gói quà tặng cho con cháu trong ngày Giáng sinh, mời bạn bè
đến ăn Reveillon không ngỗng quay thì vịt quay vv... Cũng có những
người ngoại đạo đến dự lễ Giáng sinh, xem văn nghệ hoà mình với đời
sống cộng đồng trong tình đồng hương để sưởi ấm lòng trong những
ngày xa quê hương .
Nguyễn
Quý Đại