TRẦN
HOAN TRINH
MỘT
ĐỜI THẦY ĐẤT QUẢNG
-Viết nhân
Kỷ Niệm 60 năm
thành lập trường Phan Châu Trinh
Cầm Sự vụ lệnh bổ
nhiệm trong tay , tôi leo lên chuyến
tàu hỏa tốc hành SàiGòn-Huế
đến trường trung học Phan Châu Trinh
Đà Nẵng nhân việc . Một đêm tháng
9 năm 1958 . Mưa gió suốt
cuộc hành trình . Miền Trung
đang có bão . Chiếc tàu
chạy ỳ à ỳ ạch qua những cánh
đồng bao la nước , qua
những cánh rừng ướt đẫm
mưa , qua những con sông nước tràn lan
lấp lóang bờ . Xa xa bên dưới , biển động ầm ầm , sóng vỗ trắng
xóa . Đến Quang Ngãi vào tối mịt
ngày hôm sau , tàu không thể chạy tiếp
nữa . Nhiều đoạn đường
sắt đã chìm hẳn trong
nước . . Tôi bỏ tàu , leo lên một chiếc xe hàng đầy ứ
khách đi tiếp . Chiếc xe phủ bạt kín
mít , lăn đi trong mưa , trong
đêm tối om . Tôi ngồi khuất một góc sâu trong xe ,
chỉ nghe tiếng mưa
rơi ào ạt và
tiếng người phụ xe thỉnh thoảng
gọi tên những địa danh xe sắp
đến . Xe vào bến Đà nẵng
giữa khuya . Bến xe vắng ngắt ,
lác đác vài
quán ăn còn mở cửa , đèn
mờ leo lét .Bến xe ĐN lúc đó
còn nằm trên đường Hùng
Vương , cạnh Chợ Cồn , vị trí bây
giờ là Siêu Thị BIG C . Xách chiếc vali trên tay , tôi
đặt bước chân đầu tiên của
mình xuống thành phố Đà Nẵng .
Thành phố này hoàn toàn xa lạ
với tôi , tôi chưa hề
đến đây lần nào , và cũng
chẳng có thân thích , bà con nào ở
đây cả . Đường sá vắng hiu , buồn tênh ,
mặt đường ướt át
,đầy xác lá và cành cây gãy , sau
cơn bão . Tôi
ngơ ngác nhìn quanh nơi mình sẽ sống ,
nơi mình chập chững những
bước đầu tiên vào đời . Xa lạ . Bỡ ngỡ .
Thích thú . Lúc
bấy giờ , được
bổ nhiệm về Đà Nẵng xem như
bị đi đày . Đà Nẵng lúc
đó còn nhỏ , nhỏ lắm , nhỏ
hơn Huế , Nha Trang nhiều .Tôi vẫn đinh ninh
trong lòng : thôi cứ dạy ở đây vài
năm , sẽ tìm cách đổi về Huế ,quê
hương của mình , hay Sài Gòn , nơi mình
mới khăn gói ra đi . Thế mà tôi
đã ở đây cả cuộc đời ! Thế mà tôi đã dạy riêng tại PCT
40 năm đăng đẳng ! Âu là nghiệp dĩ
! Những năm tháng ngày tàn bóng xế , lạc lõng xa
lạ giữa thành phố này , bị lãng quên giữa thành
phố này , những sớm , rất
sớm , một mình đếm từng bước lang thang
trên con đường bờ sông Bạch Đằng hay
trên con đường dọc bãi biển Thanh Bình , để
đi bộ tập thể dục , nhưng dụng ý chính
là tìm chút thoải mái , thanh thoát cho tâm hồn , đã nhiều lần tôi tự hỏi mình : quyết
định của tôi để cả một cuộc
đời ở Đà Nẵng này là Đúng hay Sai ! ? Làm
thầy một đời ở Đất Quảng này
của tôi như vậy tựu trung là thành công hay thất bại ? ! Để rồi hồn bâng khuâng , buồn vô hạn !
Thời gian học Trung
học, tôi đã nuôi
mộng sau này theo nghề dạy , nhưng theo
một hướng khác . Thế mà dòng đời
đưa đẩy , tôi lại vào
nghiệp dạy theo một hướng khác , chính qui luôn
!Thuở ấy , đậu xong Tú Tài 2 , muốn học lên
nữa thì phải vào tận Sài Gòn thôi . Các trường Đại
học khác ( Huế , Đà Lạt , ……)
mãi đến sau năm 1958 mới
được thành lập .
Thuở tiểu học , tôi học
tại trường THẾ DẠ .Thuở trung học ,
tôi học Đệ nhất cấp tại trường
PELLERIN , Huế . Năm Đệ Tam ( lớp
10 ), tôi học tại trường Tư Thục NGUYỄN
DU , Huế , mới thành lập, tọa lạc trên
đường Hàng Đường , cạnh chân cầu
Đông Ba . Tôi học Đệ Nhị , Đệ Nhất
( lớp 11 ,12) tại
trưởng KHẢI ĐỊNH .Lúc bấy giờ
trường Khải Định còn học chung với
trường con gái
Đồng Khánh , dãy lầu phía bên phải , vì cơ
sở trường còn bị
Pháp chiếm làm trại lính . Đến cuối năm Đệ Nhất
,trường Khải Định mới được
Pháp trao trả cho VN , chúng tôi khiên bàn , khiên ghế , khiên bảng đen , bục
giảng , ……về học tại trường của mình . Cũng cuối
năm đó , trường
được đổi tên là Quốc Học Ngô Đình
Diệm (từ năm sau chỉ gọi là Quốc Học
Huế ) . Tôi học lớp Đệ Nhất B3
. Thầy dạy Toán của tôi năm này là thầy N. V. H. , vị
thầy thần tượng của tôi lúc đó . Thầy
làm Hiệu ĐỆ
NHẤT –KHẢI ĐỊNH HUẾ Trưởng nên chỉ
dạy một mình lớp tôi
thôi .Nhìn chữ ký lả lướt của thầy ,
dưới triện son đỏ chói của trường
, dưới hàng chữ Hiệu
Trưởng , Giáo Sư Cử Nhân Giáo Khoa , là tôi mê tít ! . Một kỷ
niệm mà tôi nhớ mãi về thầy : chiều
hôm đó , thầy có 3 giờ Toán liên tiếp tại
lớp tôi. Chắc bận việc gì đó ,
đầu giờ thầy vào lớp và ra một đề
toán bắt chúng tôi giải trên giấy , cuối giờ
nộp , rồi bỏ đi đâu mất ! Ngồi
nắn óc bóp trán làm mãi không ra ,mặc dù
chung tôi đã tụ năm tụ bảy cùng ngồi làm
chung để suy nghĩ cach giải . Cuối giờ ,
thầy vào lớp , chúng tôi phản ảnh lại ,
chịu không ai giải được cả , thầy cầm
đề tóan lên xem một hồi , rồi bật
cười ha hả , giơ cả răng cả lợi :
bây ngu quá , đề tau ra thiếu mà cũng làm , ha ha ! Mất toi 3 giờ toán
lại còn bị mắng là ngu ,nhưng
cũng đành chịu ! Giữa năm học
, thầy không còn dạy Toán cho lớp tôi nữa .
Thầy quay qua hoạt động chính trị và chuyển
hoàn toàn lên Đại Học . Lòng tôi
vẫn ao ước sau này học hành sao cho ra trường
giống thầy : đỗ Cử nhân
Giáo khoa Toán rồi về Huế dạy ! Do đó
, đỗ xong Tú Tài 2 , theo rũ rê của
người bạn thân, tôi bay vào Sài Gòn , ghi tên ngay vào
học tại Faculté de Sciences ( Đại học Khoa
học ) , mặc dù trong túi chỉ có vài chục
đồng ! Người bạn tôi bảo phải vào sớm , đến dự thính các lớp
đang học để nghe tiếng Pháp cho quen ( lúc đó trường còn dạy
bằng tiếng Pháp ) , vào năm học chính thức
mới theo kịp để ghi bài
. Anh bảo đảm vào đó sẽ giới
thiệu chỗ dạy kèm dạy thêm ,
đủ chi phí để ăn học . Loay hoay tìm
kiếm chỗ dạy thêm chẳng ai nhận
,chắc là thấy tôi còn bé con quá ! Tiền sắp cạn , đang lúng túng không biết làm sao !
Một hôm đi ngang qua trường Cao Đẳng Sư
Phạm Sài Gòn ( Normale Supérieure de Pédagogie
), thấy thông báo tuyển sinh , tôi ghi tên dự thi ,
định bụng học thêm tại đây để
lấy học bỗng . Học bỗng của
trường Sư phạm này khá lớn ,
gần bằng lương của một công chức
bậc trung hồi ấy !
Trúng tuyển , mừng rơn ! Thế là
giải quyết được vấn đề khó
khăn nhất ! Vào thời gian này , miền Nam có 3 hệ sư phạm :
Sư phạm Cấp tốc , mỗi tỉnh có 1
trường, đào tạo giáo viên dạy tiểu học ( cấp I) . Quốc
Gia Sư Phạm , vài ba tỉnh mới có một trường
, đào tạo giáo sư ra
dạy Đệ nhất cấp
( cấp 2) , ,Cao Đẳng Sư phạm chỉ có 1
trường tại Sài gòn , đào tạo giáo sư dạy
Đệ I cấp và Đệ
2 cấp ( cấp 2 , 3) .
Cao Đẳng Sư phạm
là hệ Sư phạm cao nhất tại miền Nam
lúc bấy giờ , Đại Học Sư Phạm mãi
đến năm 1958 mới được thành lập
.Trường này , theo lời
người thầy dạy môn Phương Pháp Sư
Phạm của tôi ,cũng là
Phó Giám Đốc của trường , thầy Phan Thế Roanh , và theo các người bạn lớn tuổi trong
ngành ,
do chính phủ thuộc địa Pháp thành lập
để đào tạo giáo sư trung học cho ba miền
Việt Nam ,Lào , Cambuchia . Trước trường
đặt tại Hà Nội , đến 1954 , thực thi
Hiệp Định Genève , trường được
dời vào Sài Gòn , đặt
tại ngã tư Cộng Hòa –Thành Thái ( bây giờ là
Nguyễn văn Cừ-An Dương Vương ) ,
cạnh trường Pétrus Ký , cạnh trường
Đại Học Khoa học .
Môn học còn dạy
bằng tiếng Pháp , trừ 2 môn Tâm Lý Sư phạm và
Phương Pháp Sư Phạm. Thầy cô dạy tại đây , cũng là Thầy
cô dạy ở Đại Học Khoa Học . Vì vậy , sinh viên học tại đây
phần lớn đều có ghi danh học thêm ở Đại Học Khoa
Học , rất tiện lợi . Sinh viên ra trường chỉ đủ
để bổ nhiệm cho các trường lớn trong
nước mà thôi : Gia Long , Pétrus Ký , Chu Văn An , Trưng
Vương , Hồ Ngọc Cẫn , Nguyễn Du , Võ
Trường Toản , ….ở Sài Gòn , Quốc Học ,
Đồng Khánh ở Huế , Võ Tánh ở Nha Trang , Trần Hưng
Đạo , Bùi thị Xuân ở Đà Lạt , ……Năm 1958
, sinh viên mới được bổ nhiệm đến
các tỉnh thành khác : Đà Nẵng , Qui Nhơn , Hội An ,
Quảng Trị , …..Phần lớn chỉ 1 , 2 năm sau là
được đề cử đảm nhiệm
chức vụ Giám Đốc , Thanh Tra , Hiệu Trưởng
, Giám Học các trường cả .Mấy năm
đầu đến ĐN , tôi vừa dạy vừa
tiếp tục việc học của mình một thời
gian . Tôi được trường PCT giao phụ trách giảng
dạy ngay các lớp Đệ Nhị Cấp , nhưng
chỉ hưởng lương của một giáo sư
THĐIC , mãi cho đến 5 năm sau , 1963 , mới
thực thụ là Giáo Sư THĐ2C.
1-MỘT THỜI PHAN CHÂU
TRINH
Tôi đến trình diện nhận
việc tại trường Trung học Phan Châu Trinh Đà
Nẵng ngay sáng hôm sau
đêm đến ĐN .
Cơ ngơi của trường PCT còn rất nhỏ , nằm
lọt thỏm giữa một giải đất rộng bao la .. Sân
trường còn trải cát, chỗ cao chỗ thấp, bao
quanh bằng một hàng kẽm gai quân đội thấp lè
tè, đứng bên ngoài có thể nhìn thấy hết mọi
sinh hoạt bên trong .Cây cối trên sân chính chỉ có mấy
hàng dương liễu, hàng phượng mới trồng,
lơ thơ, ẻo lả trước gió. Năm sau, các
hàng cây này được nhổ bỏ đi, trường
trồng các cây sao, cây xà cừ thay vào, bây
giờ lên cao vút.S. Số
thầy cô đếm được trên đầu ngón tay , phần đông không qua một khoá
sư phạm nào . Cac thầy dạy đủ môn, đủ
lớp. Năm học này dạy Văn ,
năm học sau lại
được phân công dạy Toán , dạy Lý . Các môn Sử , Địa , Công Dân , Vạn vật ,
…. thì xem như phân phối lung tung , làm
sao cho quý thầy cô đủ số giờ bắt buộc
mà Bộ qui định . Một số thầy cô
được mời từ các công chức thuộc các Ty , các Sở đóng trong
địa bàn thành phố .Các vị này khi rãnh rỗi thì
dạy , khi bận công tác thì nghỉ , trường
phải bố trí bất cứ ai
vào dạy thay . Cái tuyệt diệu của các thầy
cô hồi đó là thầy cô nào cũng giỏi
, rất vững vàng
,dạy môn gì cũng đạt cả . Vì số
thầy cô còn ít , nên tình thân mật giữa nhau đậm
đà thân thiết vô cùng .Ngoài giờ dạy tại lớp
, các sinh hoạt khác : thể thao , văn nghệ , báo chí ,
xã hội , …..đều được tất cả
hăng hái tham gia , nhiệt tình, vui vẻ .Các lần
đóng trại xa, các lần trình diễn văn nghệ
đón Xuân , bế giảng năm học, những Lễ
phát Thưởng cuối năm , …. đều để
lại trong lòng thầy trò
những hình ảnh đẹp , không bao giờ quên
được . Sau này tôi vẫn nghĩ lại: chưa có
thời gian nào tôi được sống giữa
đồng nghiệp, giữa học sinh một cách thân
tình, vô tư và trong sáng như vậy.
Tôi lớn lên
cùng ngôi trường PCT, tôi chứng kiến bao nhiêu thay
đổi.
Trước năm học 1958 ,
trường chỉ
mới có 8 phòng học , mặt tiền quay ra
đường Lê Lợi . Hè 1958
trường xây thêm 8
phòng học gồm 4 trệt 4 lầu , vuông góc với dãy
trường cũ , nằm song song với
đường Thống Nhất ( nay là Lê Duẫn ) .Năm 1960 xây thêm 4 phòng tiếp
nối vào dãy giữa . Năm 1962 thêm 10 phòng cho dãy lầu
bên phải .Năm 1967, thầy Thái Doãn Ngà ,giáo sư
Toán trường
Quốc Học Huế , được Bộ Giáo
Dục cử vào đảm nhiệm chức
vụ Giám Học rồi
Hiệu Trưởng .Đây là một vị
Hiệu Trưởng tháo vát , năng nổ ,
có công nhiều trong việc xây dựng
trường .Trường được đúc móng
dựng trụ lên lầu, xây thêm Thư viện, phòng Thí
nghiệm, Hội trường , Văn phòng…..Sân
trường được đỗ đá tráng nhựa, cổng trường
được xây mới bề thế uy nghi .
Trường càng ngày càng mở mang lớn,
đón tiếp nhiều thầy cô giáo giỏi, bằng cấp cao
về giảng dạy. Học sinh càng ngày càng
đông , học giỏi , năng
động , lớp này ra trường ,
lớp khác vào ,
liên tu bất tận . Năm
1975 , đất nước
Bắc Nam thống nhất
. Tôi được bố trí dạy lại
ngay tại PCT và dạy mãi cho đến
ngày nghỉ hưu ( 1998). Do đó , tôi trở thành
người thầy có thâm niên dạy liên tục
tại trường PCT lâu nhất từ
trước đến nay : 40 năm ! Chắc sau này chẳng có ai theo kịp !
2 / NGƯỜI
THẦY LIÊN TRƯỜNG Miền
đất Quảng Nam Đà nẵng là miền Địa
linh Nhân kiệt, là đất Ngũ Phụng Tề Phi,
nơi sản sinh bao nhiêu danh nhân, anh hùng hào kiệt .Tôi
diễm phúc được dạy tại miền
đất này không phải
chỉ tại trường công lập Phan châu Trinh mà tại hầu như tất
cả các trường Bán Công , Tư Thục trong thành
phố : Bán Công ĐN , Sao Mai , Bồ Đề , Phan
Thanh Giản , Nguyễn công Trứ , Thánh Tâm , Anh Sáng ,
Nguyễn Hiền , Tây Hồ ,Thành Nhân , Báp Tít , Vinh Sơn ,
Diên Hồng , Hồng Đức , ….Có trường tôi
dạy nhiều năm , có trường chỉ dạy vài
ba tháng hay 1 học kỳ thì nghỉ . Năm
1958-1959 , Đà Nẵng chỉ có 2
trường có Đệ
Nhị cấp (chưa hòan chỉnh) : PCT và Bán Công ĐN . Qua niên khóa 1959-1960 , các trường tư khác mới
bắt đầu phát triển Đệ nhị cấp .
Các trường Bán Công , Tư thục này thường mời tôi dạy
TOÁN mỗi năm 1 hoặc 2 lớp , thường là 1
lớp Đệ Nhị B , 1
lớp Đệ Nhất A . Học sinh các lớp
Đệ Nhị B rất
đông , bao nhiêu học sinh ở Đà Nẵng , Hội An
, Tam Kỳ , Hoà Vang , Điện Bàn , Duy Xuyên , Đại
Lộc , Thăng Bình , Quế Sơn , ….nếu không vào
được PCT thì đều học tại các
trường tư đó cả . Vì vậy ,
thuở ấy , học sinh nào có học Đệ Nhị ,
đã đỗ Tú Tài I phần lớn đều có “ gặp
“ tôi , không ở các lớp chính thức thì gặp ở
các lớp cua . Một điều thú vị là nhiều gia
đình có cha , mẹ và 4, 5 anh chị em , đều là “môn
đệ ruột” của tôi cả . Những anh
chị sau này đến thăm hay nhắc lại
, xem như một kỷ niệm hiếm có .
Mới chân ướt chân ráo
đến ĐN , khi trình Sự Vụ
Lệnh với Thầy Hiệu Trưởng PCT , tôi
được thầy mời dạy tại trường Bán công ĐN
( 1958-1959 ) và trao ngay thời khóa biểu cho tôi .. Trong các
năm học đầu , trường Bán Công
được đặt dưới sự quản lý
của trường PCT , Hiệu trưởng PCT kiêm
nhiệm luôn chức vụ Hiệu Trưởng trường
Bán Công . Trường Bán Công Đà nẵng được
thân hào nhân sĩ trong thành phố vận động thành
lấp năm 1957 , để con em mình có chỗ theo học
, khỏi phải khăn gói ra Huế , vào Sài Gòn ,Nha trang
,vừa tốn kém , vừa bất tiện . Trường
chỉ có Đệ 2 Cấp (lúc này PCT chưa có mở
lớp Đ2C) .Niên khóa đầu tiên trường chỉ
có 1 lớp Đệ Tam A B , học tạm tại 1 phòng
học mượn của PCT . Đến niên khoá 1958-1959 trường
được tỉnh xây cho một cơ sở gồm 4
phòng học , toạ lạc trên một khoảng
đất rộng mênh mông ,
nằm giữa hai con đường Nguyễn Hoàng (
Hải Phòng) và Quang Trung , chéo một chút với Thánh Thất Cao Đài ĐN ( bây
giờ là Bệnh viện Đa Khoa Đà Nẵng ) . Khuôn viên này hồi đó còn cây cỏ um tùm , ao hồ xen kẻ , mưa tạt gió
lùa .. Những ngày mưa , đứng dạy , nghe văng
vẳng tiếng ểnh ương , ếch nhái vọng vào
, thê lương áo não chi lạ . Các thầy cô trong thời
gian này , ngoài một số là thầy cô PCT , trường
còn mời thêm một số là công chức đang công tác
tại Đà nẵng đến giảng dạy : luật
sư Sanh ,luật sư Trường , kỹ sư
Tiễn , bác sĩ Can ,nhạc sĩ Lê trọng Nguyễn
,thầy Phan công Hân , v.v ………… Học sinh trường rất
to con lớn xác , phần lớn là con cháu của các gia
đình có máu mặt trong thành phố ,có vài em đã có vợ
con đàng hoàng , tuy nhiên hiếu
học và yêu quý gần gũi với thầy cô vô cùng . Thầy
Hiệu trưởng bận công tác tại trường
PCT, nên mọi việc điều hành trường đều
giao cho cụ ĐOÀN VĂN KHÁNH , mục sư Tin Lành ,chức
vụ Tổng Giám Thị , phụ
trách . Tôi vẫn nhớ dáng cao
lớn bệ vệ hồng hào của cụ KHÁNH , luôn có mặt
tại trường rất sớm , đi trên chiếc xe Mobylete Pháp cũ kỹ
, để coi sóc giữ gìn trật tự cho trường
. Nghiêm trang , bao dung , vui vẻ , hiền hòa với tất cả mọi
người , tận tụy với nhiệm vụ .
Văn phòng có bác
BỬU DIÊU ( PCT) lo việc kế toán , bác xã KÝ lo việc hồ sơ , có bác
cai Nhẫn , mặt luôn đỏ au vì đế , lo việc
bảo vệ ! Tôi
còn nhớ tên rất nhiều em học sinh Bán Công giai
đoạn này: Đặng công Phu , Trần đình Ba , Võ
văn Khởi , Nguyễn hửu Xuận , Huỳnh công
Khanh , Nguyễn cù Mông , Minh Nguyệt , Huyền Tâm , Bích
Ngọc ,Trần thị Dung , Mộng Điệp , Kim Thoa ,
Kim Yến , Tuyết Giao , Kim Ngọc , Hương Bửu ,
Vũ Anh Nghi , Kim Quỳ ,
Trần thị Lý , Mỹ Lợi
, Nguyễn thị Thoại ,
………..
: Đến năm 1963 , tỉnh lấy khuôn viên này để xây
bệnh viện Đa khoa ĐN , trường Bán Công được dời đến
học tại địa điểm mới trên
đường Lê Thánh Tôn ,
cơ sở của
trường tư thục Nguyễn công Trứ
vừa bị giải thể . Lúc này trường mới
có cả Đệ 1 cấp , Đệ 2 cấp .Thầy
TRỊNH THỂ , một thầy
giáo thanh liêm , mẫu mực ,uy tín của thành phố ,
được mời giữ chức vụ Hiệu
Trưởng. Tôi nhớ dáng thầy cao ốm , luôn luôn mặc y phục trắng toát , vẻ mặt nghiêm
nghị nhưng cởi mở vô cùng . Năm 1973 ,
trường được công lập hóa và đổi tên
là trường DIÊN HỒNG , thầy Nguyễn Ngọc Thanh
( PCT ) được giao nhiệm vụ Hiệu Trưởng
.. Tôi dạy tại trường Bán công
ĐN từ 1958 cho đến 1972 thì nghỉ ,vì phải đảm nhiệm
chức vụ Giám Học tại Phan Châu Trinh , công tác bận rộn lu bù .
Một kỷ niệm đậm nét trong tôi :
số tiền đầu tiên tôi tự kiếm được để
chi tiêu cho mình là tiền lương dạy tại
trường Bán Công đó
.
Tôi đến dạy tại
trường Tư
thục SAO MAI từ niên khóa 1959-1960 , năm
trường mở Đệ
2 cấp . Niên khóa này tôi nhớ lúc đầu Hiệu
Trưởng trường là Linh Mục LÊ VĂN ẤN ,
chừng vài tháng sau, linh mục LÊ VĂN
ẤN được Tòa Thánh phong làm TỔNG GIÁM MỤC
địa phận Đà Nẵng nên linh mục VŨ
NHƯ HÙYNH phụ trách chức vụ Hiệu trưởng
thay thế , cho mãi đến 1975 .
Tôi
nhớ lớp Đệ Nhị B đầu tiên của
trường Sao Mai rất đông , sĩ số hơn
cả 100 , có những học sinh rất giỏi , không thua
kém gì trường công lập : Trương thị Huệ , Hoàng thị Phụng , Sơn ,
Trinh , Chênh , Thành , Xuân ,……..Lớp được trường
bố trí học tại phòng rộng nhất ở lầu
3 , có những cột trụ chống đỡ to bằng
người ôm , nhìn ra con sông Hàn bao la bát ngát , gió thổi
hây hây mát
rượi . Nhìn chéo một chút là Cổ Viện Chàm , âm u , huyền bí .. Xa xa bên trái là dãy núi
Sơn Chà quanh năm mây trắng phủ đầy đỉnh núi ,
bên phải là cầu De Lattre cheo leo vắt ngang sông , mờ
mờ sóng nước .Giảng bài xong,sau khi ra bài tập
cho học sinh soạn,tôi thường đến
đứng bên cửa sổ lặng ngắm các tàu bè qua
lại , ngắm khói sóng lãng đãng trên sông, thả hồn
bay bỗng vu vơ bờ này bến nọ . Lắm
bài thơ ý thơ của tôi được hình thành lúc
đó. Trường Sao Mai là trường tôi dạy
lâu nhất sau
PCT , mãi đến cuối
tháng 3 .1975 mới nghỉ , khi trường được
giao cho chính quyền mới tiếp quản .
Tôi
dạy tại trường Bồ Đề từ năm
học 1959 -1960 , khi trường mở
Đệ Nhị cấp và cơ sở dời về đường Quang Trung ( bây
giờ là trường trung học cơ sở Nguyễn
Huệ ) .. Đến
khi bị gọi nhập ngũ , tôi mới nghỉ dạy . Trình diện tại
trại Nhập Ngũ số I , khám
sức khỏe , rồi được Bộ Giáo Dục
can thiệp cho học Quân Sự 9 tuần về , định dạy
lại nhưng sau xin thôi luôn . Tôi nhớ lớp Đệ
Nhị B đầu tiên của trường Bồ
Đề học ở phòng lớn nhất thuộc tầng 2 , nhìn ra cổng
trường , có các tường chắn xây bằng
gạch tổ ong , gió thổi lùa qua mát đến lạnh
người , mỗi lần giảng bài phải hét
thật to , kẻo tiếng nói bị gió thổi và
tiếng xe chạy ngòai đường làm loãng đi . . Tôi
nhớ lớp này cuối năm học có một vở
Kịch rất hay : Trưng Trắc
Trưng Nhị . Cô nữ sinh đóng vai Trưng Trắc
đẹp mê hồn và ngâm thơ rất hay ..Vở
kịch gây xúc động nhiều trong lòng học sinh lúc ấy . Tôi nhớ Hiệu Trưởng
của trường là một vị Đại Đức ,
hiền từ và rất
đẹp trai : Đại Đức THÍCH MINH TUẤN. Trường
tư thục PHAN THANH GIẢN là một trường có uy
tín lớn .
Tôi vẫn tiếc
mình dạy ở trường này thời gian ít
quá , khoảng 3 tháng . Tôi
nhớ năm học 1960-1961 ( hay 1959-1960
? ), đảm nhiệm chức vụ giám học
trường là anh TRƯƠNG HỒNG MINH , bạn thân
của tôi hồi học KHẢI ĐỊNH -Huế . Anh
bị gọi động viên ,
mời tôi đến dạy thay anh . Khi anh
được hoãn dịch trở về , tôi trả
lớp cho anh , mặc dầu anh yêu cầu tôi
tiếp tục . Thuở đó tôi dạy tại nhiều
trường nên bị kẹt Thời khóa biểu .Vả lại thuở trẻ tôi
cũng ham chơi nữa .
Tôi dạy tại
Trường THÁNH TÂM
cũng được 5,6 niên khóa trước
1975 , do anh VĨNH LINH nhường lại . Tôi được giao phụ
trách môn Tóan tại lớp 12 . Tôi nhớ
lớp học bao giờ cũng chỉ có 6 , 7 chị
Nữ Tu , đạo đức , hiền từ , lễ
phép , chăm chỉ rất mực
, lớp học luôn luôn
im lặng như tờ . Đến cuối tháng 3-1975
tôi mới nghỉ dạy tại đây . Tôi dạy tại
trường ÁNH SÁNG từ năm 1973 đến 1975 , một lớp 12 A , thưở
chị NGUYỄN THỊ THANH làm Hiệu
Trưởng và anh NGUYỄN CHÂU HÓA làm
Giám Học
Tôi
dạy tại trường NGUYỄN HIỀN
, hậu thân của BLAISE PASCAL niên học 1974-1975 .
Năm đó , anh ĐẶNG NGỌC TUẤN ( trước
là Giám Học PCT )mới từ Huế được
cử vào phụ trách Giám học tại đây .Anh mời
tôi đến dạy với tư cách giáo sư dạy
giờ , TOÁN lớp 12 A. Tôi nhớ lớp chỉ có khỏang 10 nữ sinh , em nào
cũng hiền lành , thông minh , đẹp đẽ , đài các . Hằng Nga , Kim Anh ,
Lan ,Lộc , Ngọc,
………Lớp học nằm ở 1 phòng học riêng
biệt , cheo leo ở lầu
2 dãy nhà mới , nhìn ra đường Quang Trung , con
đường được học sinh hồi đó
gọi là Đường Tình Sử .
Tôi có dạy 1 thời gian
tại trường THÀNH NHÂN của anh HỒ DUY TRINH , trường
VINH SƠN của Linh Mục TRINH , trường Tây Hồ ,
Trung Tâm Báp Tít ,…..
Tôi cũng có vào dạy
tại trường TRẦN CAO VÂN , Tam
kỳ , trên giấy tờ khỏang 3 tháng , nhưng trên
thực tế khỏang 2 tuần . Tuy thời gian dạy
tại đây không là bao, nhưng tôi cũng có rất
nhiều kỷ niệm đẹp với ngôi trường
lắm nhân tài này .
Năm tôi nghỉ hưu ,1998 , thành phố Đà Nẵng được phép mở Tư
Thục lại. Tôi được 2 trường Tư
Thục mới mời dến dạy :
trường Tư Thục DIÊN HỒNG và trường
Tư thục HỒNG ĐỨC
. Dạy tại 2 trường này 4 năm thì tôi xin
nghỉ hẳn , vào Sài Gòn lang thang ……
3.
MỘT TRỜI KỶ NIỆM
Trong suốt thời gian làm nghề
thầy giáo , tôi chỉ miên man với
chuyện dạy dỗ . Say sưa dạy .
Miệt mài dạy . Đem tất cả
tâm hồn mình đặt vào việc dạy ,
việc lên lớp .Lứa học trò này ra đi , lứa
trẻ khác vào trường , lại đem lại những say sưa mới ,
những thương yêu mới, những ngọt ngào
mới . Không hề suy nghĩ tính toan gì khác .
Một số bạn đồng nghiệp của tôi xem trường lớp, xem
việc dạy chỉ là nghề tay trái , công việc chính
của họ ở các lĩnh
vực khác : chính trị ,buôn bán , kinh doanh , xây dựng ,
thầu khóan …..Tôi
thì không có một ham muốn nào khác ngòai việc
dạy dỗ , gần gũi với học sinh của mình . Không bon chen
, không chạy vạy xuôi ngược . Dạy dỗ
nhiệt tình . Có lẽ là vì tôi bất tài , nhu
nhược , không dám dấn thân ! Đời sống
chỉ bình thường thế thôi . Giàu
cũng không giàu . Nghèo cũng không nghèo tí nào ! Tôi luôn luôn bằng lòng với những gì
mình có , và cả những gì mình không
thể có ! Hạnh phúc vô cùng là người bạn
đời cuả
tôi cũng bắng
lòng như vậy , sống vô tư như vậy ,
không chấp nhất , không nề hà , không đòi hỏi gì cả !
Trong
suốt 40 năm ở trường PCT , trong gần 50
năm làm thầy ở Đất Quảng , kiểm
lại rất mừng thấy mình chưa phạm một
điều gì sai trái lớn lao cả, chưa hề có hành
động nào làm cắn rứt lương tâm ! Dạy dỗ hết lòng, luôn tận tâm tận
lực. Không hạ mình , không luồn cúi , không bợ đỡ
, không bán rẻ lương tâm .Vui với cái vui của
học trò, buồn với cái buồn của học trò.
Luôn luôn xem nhà trường, lớp học là một cõi
đi về của mình .Mặc dù nhiều lúc bị lãnh
đạo đối xử bất công, chèn ép, nhưng vẫn
xem đó là cái giá phải trả , là tai nạn nghề
nghiệp thôi! Một điều mà tôi vốn tâm nguyện
phải giữ gìn là ông thầy luôn luôn phải công bằng
với học sinh của mình , học trò giỏi , học
trò yếu , học trò ngoan , học trò hư đều phải
đối xử như nhau , không thiên vị , không ức
hiếp ! Chuyện thi cử trúng tuyển vào lớp
đầu cấp , vào đại học
, những năm đầu sau 75 làm tôi nhiều khi bức
xúc vô cùng ! Nhiều khi chán nản định bỏ quách
nghề dạy , tung hê tất cả , vào Sài Gòn tìm một
công việc khác để sinh sống , nhưng cứ
bước chân vào lớp học , nhìn nụ cười
ngây thơ của học sinh mình ,nhìn những đôi
mắt tha thiết chân tình ,
lại say sưa giảng dạy , giọng giảng
bài lại sang sảng nhiệt tình ,lại đặt
hết hồn mình , lòng mình vào bài dạy , lại thành tâm thành trí đem
sức mình cống hiến cho tuổi trẻ , cho học
trò , quên hết mọi chuyện !
Học
sinh đã đem đến cho tôi cả một trời
kỷ niệm đáng nhớ ! Vui cũng có .
Buồn cũng
có . Kỷ niệm nào cũng trân quý ,
kỷ niệm nào tôi cũng đều ôm ấp nâng niu cả
! Tôi kể ra đây vài kỷ niệm ! Cho vui thôi !
1/Một
chuyện tình học trò : Bước
vào lớp học , bỏ cặp sách trên bàn , tôi vẫy tay
ra dấu cho học sinh
ngồi xuống . Mắt bỗng bất chợt thấy , ở bàn đầu , em X. nãy giờ
cứ ngồi yên , không hề đứng dậy . Tôi
định gọi em
khiển trách , nhưng nhìn vẻ mặt bơ
phờ ngơ ngác của em ,
tôi lại thôi . Suốt thời gian giảng bài
, tôi chú ý thấy X.. khi thì vẹo
người qua trái , khi đổ người qua phải ,
khi thì nằm úp mặt xuống vở . Em không hề ghi bài , cây viết tuy nằm trên tay nhưng
nắp viết chưa hề được mở .
Thấy tôi nhìn , Y. ngồi cạnh
đưa tay hích X. , nhưng X. vẫn làm lơ . Mắt
như lạc thần , tâm trí như
để tận đâu đâu . Khi kết thúc bài giảng , tôi xoa hai tay vào với nhau
để chùi bớt phấn , nỗi tức bực
từ nãy giờ cố
kềm lại bỗng nở òa ra :
-X. ,
đem vở ghi bài lên đây !
Gọi
lần một , lần hai , lần ba , X. vẫn như
không nghe , lại còn nằm úp mặt nhòai ra trên bàn , như giận , như
lẫy ! .
Tôi
đập bàn cái bốp , hét :
-Đem vở học lên đây ! Mau lên ! Nghe không ? Đồ bướng !
X.
chỉ nhích người đứng dậy một chút , nhưng rồi lại ngồi phịch
xuống ngay . Em trưởng lớp ,
ngồi ở cuối phòng , đứng dậy đến
bên X. , tay đẩy nhẹ X rồi lấy vở đem
lên trình tôi . Tôi giật lấy cuốn vở
, xé tọac làm hai ,
vứt cái phựt ra ngòai cưa sổ .
- Bộ nó không có chân không có
tay sao mà em phải đem lên nộp thế !
? Đi học chứ đâu phải đi làm bà hòang bà
hậu đâu mà đỏng đa đỏng đảnh thế ?
Tôi tức bực ngóay hai con
số 0 to tướng vào sổ điểm ,
rồi vùng vằng bỏ ra
khỏi lớp , đi đến phòng Hội Đồng
Giáo sư cạnh đó . Rót
nước uống từng ngụm nóng nhỏ
, tôi thấy cơn giận vẫn chưa nguôi ngoai .
Nhìn ra cửa sổ phòng Hội Đồng ,
tôi thấy em trưởng lớp đang đi nhặt
từng trang vở một của X . mà
tôi đã xé , gom lại , vuốt thẳng , rồi sắp
xếp ngay ngắn , với
một vẻ cam tâm chịu đựng . Tự nhiên
thấy lòng mình lắng xuống ,một
chút gì như hổ thẹn , như ăn năn thỏang
đến . Tôi chợt thấy mình còn thua xa học sinh của
mình ! Sao nóng nảy thế ? Sao hồ
đồ thế ? Sao mất bình tĩnh
thế ! Không ra vẻ ông thầy gì cả ! Thế
mà cũng vênh vênh đi dạy ! Vị
Tổng Giám Thị nghe lớp ồn ào , rồi thấy tôi
bỏ lớp đi ra , từ phòng mình đi vội lên , tay
cầm cái roi mây vẩy vẩy . Anh hỏi tôi
:
-Chuyện gì vậy
? Đứa nào vậy ?
-Không có gì .
Tôi trả lời rồi cúi
đầu lặng lẻ đi về lớp dạy .
Cuối giờ dạy , em Y. , ngồi cạnh X. , lên nói
khẻ vào tai tôi :
-Bạn
X. “bị “cái đó thầy ơi , nên không thể đứng lên đem
vở cho thầy
được! Tôi
ngượng ngùng quá cho sự thiếu hiểu biết , thiếu nhạy cảm của mình
quá . Từ lần đó , bao giờ
muốn rầy la học sinh , tôi đều cố gắng
kềm chế mình tối đa .
Gần 10 năm sau ,
gặp lại học sinh cũ của lớp đó , các em
cho biết em trưởng lớp
và X. bây giờ là vợ chồng của nhau và đã có
một mặt con .Chúng còn châm biếm thêm :
-Nhờ
thầy mà 2
đứa yêu nhau đó , thầy ơi !
2/Một mùa xuân đặc
biệt trong đời
Vận
mệnh đời sống của tôi ,
nhiều lần do học trò tạo ra . Học trò đã có
mặt đúng khi đúng lúc, làm thay đổi cuộc
đời của tôi . Nếu không
gặp được học trò những lần như
vậy, chắc chắn đời tôi đã rẽ qua
một ngả khác . Không biết là
xấu hơn hay tốt hơn .
Năm
ấy, 30 Tết tôi về thăm nhà ở Huế
, ở Vỹ dạ. Định bụng ở
lại ăn Tết với cha mẹ
ngày mồng một, đến mồng hai mới vào
lại Đà nẵng với vợ con. Đêm giao thừa
đó ngủ chẳng được ,
pháo đâu thiên hạ đốt quá chừng. Cả
tiếng súng nữa, liên tu bất tận .Thao thức đến sáng.
Ba tôi dậy sớm loay hoay chộn rộn sửa soạn
về làng nội Dương Nỗ thăm mộ .Tôi vùng
dậy, lang thang một mình lên phố khi trời còn chưa hửng
sáng. Qua Đập Đá . Qua cầu
Trường Tiền còn mờ hơi sương, ghé quán cà
phê XƯỚNG cạnh chân cầu, gần tiệm xe An Lợi
.Ong tài xế quen, anh Minh, chạy chuyến đầu Xuân
mở hàng, vui vẻ bảo : vào Đà Nẵng
đi thầy, chiều ra lại với em ! Không
lưỡng lự, hai tay không leo lên xe, tính tôi
hay lãng tử vặt
như thế . Tình cờ ngồi cạnh Th.
, một học sinh tôi mới dạy cách đây 2 năm,
đang học tại Đại học Huế. Thưa thầy . Xe chạy
bon bon trong một sớm mùa xuân đẹp. Mọi nhà mọi người còn đang yên
ngủ. Đến cầu Lăng cô, lính gác chận
lại, buộc quay về . Đang đánh
nhau to trên đèo Hải vân, nhiều cầu đã bị mìn
giựt sập, nhiều đoạn đường
đang có giao tranh. Mọi người theo xe quay
về Huế
hết . Th. rủ : thầy và em đi bộ vào thầy,
trở lại làm chi. Nhận lời liền không chút
đắn đo . Hai thầy trò đi nép vào thành núi,
tiến dần lên cao, nhiều lúc phải nằm mọp
xuống các tảng đá ven núi, Mỹ đang pháo kích tưng bừng, đạn kêu chíu chíu trên
đầu. Đi rồi dừng, dừng
rồi đi. Càng lên cao ,sương
càng đậm, hơi lạnh tê buốt xương
.Một buổi sáng mùa xuân đặc biệt của
đời ! Đến trưa, bụng
đói, các hàng quán thường ngày ven các vách núi đều
đóng cửa nghỉ đón xuân cả .Th. lấy mấy
cái bánh in mang theo trong người, hai thầy trò
đứng dựa vào vách núi chia nhau ăn , vừa nhai
vừa tâm sự. Lần đầu tiên đi bộ qua
đèo Hải vân, tưởng là gần, thế mà đi
từ mửng sáng đến tối mịt mới
đến chân đèo bên kia . Qua
đỉnh đèo, thấy xác lính du kích ,
lính quốc gia sắp nằm 2 hàng . Các lô cốt ngày
thường kiên cố là thế, hồi khuya đã bị
B40 cày tan nát . Đến bến xe Liên
chiểu, hai thầy trò chia tay nhau, leo lên xe lam, ai về nhà nấy . Đó là cái Tết nhớ
đời của tôi ! Nếu không nghe
theo lời rủ của Th . mà quay
lại Huế thì tôi đi đong rồi ! Đêm mồng
một Tết ấy, quê tôi
Vỹ Dạ tràn ngập quân
du kích , sau một thời gian chiếm đóng lâu dài
phải rút đi, những trai tráng trong vùng đều
bị dẫn đi cả. Biệt tích luôn.
Sau này, trong một lần từ Huế vào thăm nhà, xe Th. đi
bị rớt xuống đèo, Th.
chết khi đang học năm 4
đại học, sắp ra trường . Lần đó , có cả Th., một cô học trò
rất ngoan rất xinh học cùng lớp với Th ,
đi cùng chuyến xe với Th. , chết nữa . Nghe nói
hai người đang yêu nhau , không
biết phải không ! Sau này , mỗi lần
đi qua đèo Hải Vân, tôi đều nhớ đến
Th.
3/ Thưa Thầy Còn Nhớ
Con Không.:
Tôi xuống xe buýt từ
đầu đường Nguyễn Tri Phương
.Băng qua đường, đi lang thang dọc hè phố
đường Trần quốc Toản ( nay
là 3.2 ). Nhìn vào khuôn viên trường Quốc Gia Hành Chánh
cũ, tự nhiên nhớ bạn bè chi lạ .Những
đêm Sài Gòn trước đây tôi hay vào Ký Túc Xá ở
đây để thăm bạn, những thằng bạn
nuôi mộng ra trường sẽ làm to , ngồi trên
đầu trên cổ thiên hạ .Tỉnh trưởng , phó
Tỉnh trưởng , Quận trưởng… Bây
giờ tất cả chết chui chết dũi đâu
cả rồi?! . Chỉ có tôi đang đi lang thang
một mình ! Chiều thứ bảy người , xe đông đảo chi lạ
. Dân Sài Gòn có cái quái
: khi nào cũng lăng xăng , vội vàng ,
tất bật , đi như không cần nhìn lui, chạy xe
như bị ma đuổi . Tôi hoà mình vào dòng người
xuôi ngược đó , không mục
đích . Đến ngã tư Trần Quốc Toản-Lê
Văn Duyệt , một người
đàn bà từ một quán bên
đường đổ xô ra ,đâm sầm vào tôi . Tôi
tròn mắt , định lên tiếng
cự nự , nhưng ngừng kịp trước
giọng hốt hoảng bàng hoàng của người
đàn bà :
-Thầy T. ,
phải thầy TĐT không ?
Tôi chỉ kịp gật
đầu xác nhận thì đã bị người đàn bà
ôm chầm lấy , nức nở : -Thầy ơi !
Thầy có nhớ em không ? Em là X….. ,
trước học với thầy tại PCT
, thầy vừa dạy Toán , vừa làm Giáo Sư
Hướng Dẫn .Thầy ơi ! Bây giờ tóc thầy
bạc phơ đến thế này sao ? Thầy còn dạy không? Học trò bây giờ
thế nào ? Trường mình có gì thay
đổi không ? Thầy Tr
., thầy Q. , cô L , cô Đ thế nào ? Thầy có hay
gặp con L., con Y. , thằng B, thằng
V. không ? Bọn nó có hay đến thăm thầy không ? Cây phượng bên góc sân còn không , cây xà cừ giữa sân có còn đó không
,…..…..Người đàn bà nói một thôi một hồi ,
như sợ ai cướp lời , như sợ không nói
hết ý . Hai tay cứ nắm chặt tay tôi, đầu
gục vào vai tôi , những giọt
nước mắt chân thành nóng hổi làm đẩm
ướt cả áo . Mặc
những người qua đường nhìn kinh ngạc , tò mò ,người học trò cứ
thao thao bất tuyệt . Cảnh trường
, cảnh lớp , thầy cô bạn bè của gần
40 năm trước được nhắc đến
một cách thiết tha , sống động . Chiều
đã tàn dần , thành phố đã vào
đêm , đèn đường đèn các cửa hiệu
đã bật sáng , nhưng hai thầy trò có biết gì
đâu , cứ mãi say sưa với những kỷ niệm
cũ của một thời thanh xuân xa lăn lắc .Thật ra chỉ một mình
người học trò nói , tôi chỉ lặng im nghe , im
lặng nhìn , không dám động mạnh, sợ làm tan
đi những mộng đẹp một thời của người
học trò mà tôi chợt nhớ ngày xưa nỗi tiếng
là đẹp. Bây giờ , da sạm đen , tóc tai rối
bời ,vẻ phong trần dày dạn trên khuôn mặt đã
về chiều , nếu không được giới
thiệu tôi đâu có nhận ra được .
Đường sá đã thưa thớt xe cộ
. Gió thổi rung những cây cổ thụ bên
đường .làm những chiếc lá nhỏ rụng bay bay , rơi đầy trên tóc , trên vai hai
thầy trò , rơi đầy huyền ảo trong đôi
mắt ngấn lệ. Chào ra về , đi một quảng xa ,tôi mới
chợt nhớ quên chưa hỏi ngừời học trò
bây giờ làm gì , ở đâu , đã có chồng con chưa…..
Đêm ấy thao thức mãi chẳng ngủ
được. Tiếng gọi “ Thầy ơi” như nức nở như ngậm ngùi
vẫn còn thoang thoáng bên tai. Tôi vùng dậy, viết một
mạch bài thơ : THƯA THẦY CÒN
NHỚ CON KHÔNG ? Đọc đi đọc lại
, lòng cứ bâng khuâng xao xuyến
…….Thưa thầy còn nhớ con không ?
Chiều
hôm nay ở giữa phố đông
Có
hai thầy trò ôm nhau mừng mừng tủi tủi
Tóc
thầy trò cả hai đều bạc
Trong
tao phùng chợt thấy thanh xuân
Giữa
phố người qua kẻ lại chen
chân
Em
đưa tôi về ngôi trường mái ấm………
4/ Chuyện Một
Người Học Trò Con Gái Tôi
không nhớ rõ đó là vào năm 1976 hay 1977 . Đứng dạy trong lớp , phòng
học thuộc tầng trệt nhìn ra đường Lê
Lợi , tôi hay thấy có một cô nữ sinh lấp ló bên cổng , đi qua
đi lại , ngập ngừng như muốn vào
trường rồi lại thôi , rồi cúi đầu
đi thẳng . . Dáng cao cao , ốm nhom
ốm nhách , chiếc áo trắng đơn sơ , xơ xác , luộm thuộm .
Khuôn mặt xương xương ,
đôi mắt xa vắng , đôi tay đôi chân dài khẳng
khiu , tóc kẹp thả dài sau lưng . Rồi một hôm ,cô gái như bạo dạn hẳn lên ,
đi nhanh vào cánh cổng nhỏ luôn luôn được
mở rộng của trường . Đứng vin tay vào
cây xà cừ này một chút , lại
đến tựa vào cây xà cừ khác . Có lần tôi thấy
cô gục mặt vào tượng cụ Phan ,
thầm thì gì đó . Lang thang
lẩn thẩn
bậc thềm này , gốc cây nọ hoài như
vậy . Như một bóng ma , như luyến lưu , như bịn
rịn . Từ bục giảng , tôi
bước vội ra hành lang . Tôi đã nhận ra cô học trò
cũ của mình ngày nào : Nguyễn thị X. A
,học rất giỏi , rất hiền từ ,
rất lễ phép , rất chịu khó và hay đau
ốm . Thấy tôi ra đứng bên hành lang ,
cô học trò ngẩng lẽn nhìn ,rồi hấp tấp cúi
mặt , hình như muốn chạy tới , nhưng hình
như cũng muốn chạy lui . Bỗng cô hấp
tấp chen mình ra khỏi cổng ,
thất thểu đi thẳng . Sáng hôm sau ,
tôi vẫn dạy ở lớp đó . Mãi say sưa với
bài giảng của mình , bỗng nghe
tiếng “ lóc cóc “ gõ cửa
. Tôi nhìn ra : cô học trò cũ
đứng bên cửa lớp từ lúc nào , đang nhìn tôi
trìu mến . Vẫn chiếc áo trắng gầy mong manh , xơ xác , khuôn mặt bơ phờ ,
nước da xanh tái , vẫn lọn tóc buộc kẹp thả dài sau lưng mảnh
khảnh . . Cô học trò cúi đầu chào tôi
: Em chào thầy . Thầy mạnh khỏe không ? Tôi
chưa có phản ứng gì cả thì cô học trò đã xông
vào lớp , ôm lấy đôi vai tôi ,
rồi quay về phía học trò , dõng dạc : “Thầy cũ của Chị
đây. Thầy dạy chị năm Đệ Nhị B , cách đây 10 năm rồi đó . Các em có
phúc lắm mới được học thầy hôm nay”
( Xin được ghi nguyên văn câu nói
của cô học trò ) . Nói chưa xong , cô
học trò đã nghẹn ngào nức nở . Hai hàng
nước mắt chảy tràn lan ,
ướt nhoè 2 gò má nhô cao , xương xẩu . Tôi cầm
đôi tay cô học trò cũ , bóp
chặc như an ủi ,
như chia sẻ , cảm thông . Tôi thấy người cô
học trò cứ run
lên , nghẹn ngào , xúc động . Tôi cầm tay
cô dẫn dần ra phía hành lang , không
muốn để cô xúc động quá trớn trước
mặt những học trò mới . Tôi hỏi
:
- Bây giờ em làm gì ? Học Đại học ngành nào ? Đã tốt nghiệp chưa
?
Không
nói gì cả , cô học trò chỉ nhìn tôi
, lắc đầu .
-Em tưởng thầy
đi đâu rồi , thế mà thầy
vẫn ở đây . Thầy gắng giữ gìn sức
khoẻ thầy nghe .
Đưa tay gạt
vội 2 dòng nước mắt lần nữa đang lăn tròn trên má , cô
học trò cúi đầu chào tôi , bước vội
xuống tầng cấp , ngang qua
sân trường , băng mình ra khỏi cổng . Tôi định gọi
lại , nhưng chợt nghĩ
: thôi để xúc động của người
học trò qua đi . Gặp lần sau sẽ
hay. Vào lại bên bục giảng ,
tâm hồn tôi cứ phiêu bạt đâu đâu , không làm sao
tập trung lại được với bài giảng . Tôi
ra cho lớp một bài toán nhỏ ,
bảo ngồi soạn , rồi miên man suy nghĩ . Tôi
nhớ cô học trò này trước làm trưởng
lớp , lớp phần nhiều là nữ sinh, tôi còn
nhớ họ tên nhiều em lớp này :Đoàn thị
Đ. , Lê thị Th. S. , Trịnh thị Q., Ngô thị Ph. H., Trần thị
Th., Nguyễn thị H., Lê thị C. L. , Lâm thị V. ,
Hồ thị T.H. , Nguyễn thị M.N. , Phạm thị Y.
, ……. X. học giỏi lắm
, giỏi lắm , mấy lần tôi đã phê điểm
Toán 20 , giao làm “ sơ mi “ những Kỳ thi
Lục Cá Nguyệt , đã một lần cuối năm
được trường trao “Phần thưởng của Tổng Thống “ . Con
nhà gia giáo , sống rất bình dị ,
đạm bạc . Sức khoẻ yếu .
Tôi chợt nhớ cách đây mấy năm , một
người học trò đến thăm có báo với tôi :
NTX bỏ học rồi , hình như học quá nên thành
điên , bây giờ cả ngày chỉ đi lang thang thơ
thẩn….Tôi nhớ lòng định nhờ chở đi tìm
thăm X nhưng bận
bịu lung tung rồi thôi . Bây
giờ tình cờ gặp X đó , bao
nhiêu hình ảnh cũ hiện về , ngậm ngùi , thao thức …..
Kể từ hôm đó , tôi cứ mong ngóng X một lần
trở lại thăm trường như hôm nào , nhưng
không bao giờ X trở lại nữa . X đi biệt , hiện ra một thoáng rồi
như tan biến mù tăm . Thời gian sau ,
tôi được tin X chết rồi , chết trong
một nhà thương điên nhỏ tại Nha Trang (?) .
Hình ảnh X với hai hàng
nước mắt dầm dề ,
cầm tay tôi , đứng trước lớp , giới
thiệu : “thầy của
Chị đây “,vẫn còn mãi mãi trước mắt
tôi,trong hồn tôi !
5/Một
lần nóng tính
Tôi
đến dạy đây năm 21 tuồi, cái tuổi
chưa đủ chửng chạc để làm một ông
thầy của các lớp Đệ nhị cấp, học
giỏi, năng động, đầy tài trí , thông minh.Tôi
cũng biết mình còn quá trẻ để làm thầy, vì
vậy thuở mới đi dạy, nhiều khi làm mặt
nghiêm, ra vẻ quan trọng, làm bộ làm tịch để
chứng tỏ vai thế của mình , để che lấp
những non nớt của mình trước mắt đám
học trò luôn luôn rình rập để phê phán. Trong thâm tâm,
tôi vẫn luôn coi trọng đám học sinh của mình, luôn
luôn muốn hoà đồng với các em, muốn cùng các em
chia sẻ vui buồn của cuộc sống .Học sinh
giỏi, học sinh kém, học sinh ngoan, học sinh
bướng bỉnh , tất cả tôi
đều thương yêu như nhau, đều có hình
ảnh bình đẳng trong lòng tôi . Kinh nghiệm cho tôi
biết là những em hoang nghịch, những em cá biệt
lại là những học sinh có tình cảm đong
đầy nhất , là những học sinh nhớ thầy cô của mình
một cách dai dẳng nhất
.Có nhiều em để lại trong tôi những ấn
tượng khó quên. Thưở trai trẻ tôi cũng có những chướng tính
kỳ quặc, hồ đồ, bất công, tôi không hiểu sao các em lại
chịu đựng được,không lần phản
ứng .Có lần, không kềm chế được
sự nóng nảy của mình ,tôi đã bạt tai một em học
sinh nghịch ngợm, em Ph. , lấy phấn ném lên
người bạn đang làm bài trên bảng, có tôi đứng cạnh .Cái bạt tai
hình như quá mạnh, tôi thấy Ph. lặng đi, choáng váng
.Niềm hối hận chợt tràn ngập trong lòng ! Tôi
lẳng lặng ra hành lang đứng cho tâm hồn yên
tỉnh trở lại .Thú thật tôi muốn quay vào
lớp để ôm Ph. trong tay, để xin lỗi Ph.
Nỗi tự ái níu chân lại đó thôi .Đêm về, tôi cứ lo
nghĩ không biết Ph. thế nào, có ảnh hưởng
đến sức khoẻ gì không, có học hành
được không, hết choáng váng chưa ? Các ngày kế
đó, mặc dù không có giờ dạy, tôi cũng đi ngang
lớp, nhìn thoáng qua chỗ Ph. ngồi, thấy Ph. đang
đùa giỡn nói cười với bạn bè tôi mới
yên tâm .
6/Mê
Thi Đại Học
Một lần tôi dạy tại một lớp 12
nổi tiếng học yếu. Chiều ấy , tôi giảng phương pháp tìm giao
điểm của hai đồ thị. Thí
dụ 1, thí dụ 2, rồi thí dụ 3. Nói khô cả
cổ nhưng vẫn thấy học sinh mình không nắm
được vấn đề bao nhiêu cả. Đang bực mình,
nhìn xuống cuối lớp, thấy Tr. , một học
sinh nhác nhất lớp, kém nhất lớp, đang say
sưa đọc gì đó dấu dưới hộc bàn ,
đôi mắt sáng long lanh, miệng cười chúm chím thích thú . Tôi
vứt phấn , lặng lẻ đi
xuống đứng bên Tr. Cả lớp bỗng im
lặng, 50 cặp mắt nhìn theo, hồi hộp. Tr.
đang đọc “
Hướng
Dẫn Dự Thi Đại Học
“ ! Tôi bỗng nỗi đoá lên, giật lấy cuốn sách ,
định la hét, định mắng mỏ,
định đay nghiến : “
Tướng em đậu Tốt nghiệp đã
được chưa mà mơ chuyện thi Đại
học ? Học như mèo cào chó cắn mà cũng mong
Đại học !Không biết xấu !
Không biết thẹn ! Đồ ngu
như bò ! “ .May sao tôi kìm lại
được ! Lời chưa thoát ra khỏi miệng
đã tan biến .Nhìn hai má Tr. ửng hồng lên, nhìn vẻ thẹn
thẹn, chịu đựng của cô học trò nhỏ
lòng tôi bỗng dưng se
lại .Tại sao mình lại cấm học sinh của mình
mơ ước ? Đậu vào Đại học bây
giờ là niềm mơ ước của tất cả
tuổi trẻ, của tất cả ai đang ngồi
học tại trường phổ thông .Ước mơ
đó là niềm hạnh phúc, là đam mê, là khát khao, là hoài
vọng tột cùng. Hãy để các em mơ
ước.Đâu phải ước mơ nào cũng
thực hiện được cả đâu? Nhưng
mơ ước nào lại không đẹp !
Lòng tôi bỗng
dưng dịu lại , tự dưng thấy ân hận
như mình đã phạm một lỗi lầm gì đó. Kinh
nghiệm nóng tính lần này làm thầy luôn giữ mình
điềm tĩnh .
Kỷ
niệm về một đời dạy học tại Đất
Quảng của tôi còn nhiều , nhiều lắm
. Nhưng thôi !
4/BỎ TRƯỜNG MÀ
ĐI
Ngày nghỉ
hưu , một chiều buồn , tôi lang thang đến
thăm trường PCT .Ngồi trên chiếc ghế
dài học sinh kê cạnh Phòng Hội Đồng
Giáo Sư , nhìn sân trường nhạt nắng , nhìn
hàng cây rụng lá , nghe thoảng thoảng tiếng giảng
bài từ các phòng học kề bên ,bỗng thấy cả
một đời làm thầy của mình tại đất
Quảng thoáng qua trước mặt như một giấc
mộng , giấc mộng xa vời
! Một giấc mộng đẹp nhưng buồn
hiu hắt ! Tôi đã sáng tác
một mạch bài thơ BỎ TRƯỜNG
MÀ ĐI , ngậm ngùi , tha
thiết:
BỎ TRƯỜNG MÀ
ĐI
Ta
đến khi tóc xanh
Ta về khi tóc bạc
Này , mai trên trường xưa
Có một người thiếu mặt !
Ta đến hồn như trăng
Ta về lòng như suối
Cây sao già trên sân
Ngươi thua ta một tuổi !
Bước đi trên hành lang
Bước đi trong lớp học
Cọng lại bằng con đường
Nối vòng quanh trái đất
Ta đã nói triệu lời
Ta đã viết triệu câu
Bóng hình ta khắp nơi
Từng góc tường đóng bụi !
Ta lặng lẽ âm thầm
Bốn mươi năm cửa lớp
Còn gì cho ta đây
Những ngày dài cỏ mục ?
Tiễn ta về hôm nay
Hàng cây xanh cúi mặt
Gốc phượng hồng ngẩn ngơ
Học trò thì đâu mất !
Ơi tượng đồng lặng câm
Người có buồn khi mất
Một hình bóng thiết thân
Vẫn
bên người son sắt!
Ơi phấn trắng bảng đen
Thôi cũng đành vĩnh biệt
Rồi năm tháng cuối đời
Chắc nhớ ngươi tha thiết !
Mai có ai khóc ta
Khi về thăm trường cũ
Cứ nhìn mây lưng trời
Lắng tai nghe gió thổi
Ta đến khi tóc xanh
Ta về tóc đã bạc !
Đóa hồng nào cho ta
Sao đóa hồng tím ngắt!
TRẦN HOAN TRINH
(trích Hồi ký: Một
Đời Thầy Một Đời Thơ )
TRẦN
HOAN TRINH