MÈO TRONG
KHOA HỌC- ĐỜI SỐNG -THI CA
Nguyễn Quý
Đại
Theo Âm lịch Tết cổ
truyền Việt Nam năm nay là ngày thứ Năm 03.02.2011
thuộc chi Mão, mèo đứng thứ 4 trong 12 con giáp.
Mười hai con giáp xuất hiện trong Bát quái của Kinh
dịch, lịch Tàu họ chọn Thỏ, nhưng
người Việt chọn
mèo vì nó gần với đời sống Văn hóa
Việt Nam. Mèo dịu dàng dễ thương như chó,
nhưng mèo được thuần hóa sau cùng.
Những
nhà Khảo cổ học nghiên cứu dòng họ nhà mèo có
từ thời tiền sử hàng triệu năm, đã hóa
thạch từng tìm thấy ở các Châu lục. Mèo
rừng (Wildkatze/ Forest cat) ở Phi Châu tên khoa học (Felis
Silestris lybica), được thuần hóa trở nên mèo nhà
(Hauskatze) tên khoa học (Felis Silestris Catus). Thời cổ
đại người Ai Cập (Agypten) thuần hóa mèo khoảng
6000 năm trước Công nguyên (viết tắt TCN), tuy
nhiên người ta cũng tìm thấy răng xương
mèo khoảng 9000 năm TCN trong ngôi mộ cổ ở Jericho
Isarel, ở đảo Zypern 5000 năm TCN và thung lũng Indus Harppa 4000 năm TCN. Thời
cổ đại thuần hóa mèo vì chuột cắn phá mùa
màn, mèo bắt chuột bảo vệ thực phẩm và
săn các loại rắn độc nguy hiểm như
Kobras và Vipern, từ đó mèo gắn liền với
đời sống con người.
Nguổn gốc của mèo.
Mèo
thuộc bộ ăn thịt (carnivore) cùng họ Felidea, các
thành viên cùng họ với mèo to lớn (Pantherinae) như:
Leopard (Panthera pardus); Gepard (Acinonyx jubatus); Löwe (Panthera leo )
đều ở Phi Châu. Jaguar (Panthera onca) ở Nam Mỹ;
Nebelparder (Neofelis nebulosa) sống ở Nepal và Tiger (Panthera
tigris) sống vùng nhiệt đới.
Các
loại mèo nhỏ (Felinae) ở Mỹ Châu (kleinkatzen
Amerikas): Rotluchs/ Bobcat (Felis lynx rufus) và Ozelot/Ocelot (Felis
pardalis) thường ngủ ngày ở Nam Mỹ; Kanadischer
Luchs/
Loại
mèo ở Âu Châu và Á Châu. Schottische Wildkatze (Felis silvesstris
grampia) loại đuôi ngắn ở Anh Quốc, Spanische
Wildkatze (felis sivestris iberica) và europäische Wildkatze (felis silvestris
europaca); Ở Ấn Độ Indische Steppenkatze (Felis
silvestris ornate), Rostkatze (Felis prionailurus rubiginosus), Iromote Katze
(Felis prinailurus iromotensis) bắt chim cua ở các đảo
của Nhật, Fischkatze (Felis prinailurus vierrimus) ở Silanka
và Trung Hoa bắt cá và rắn, Luchs (Felis lynx) tai dài ở
Sibirien, Manul (Felis manul) tai nhỏ phủ đầy lông
ở Iran…
Mèo nhà
Chúng ta có thể phân biệt
được mèo nhà và mèo rừng, mèo nhà bộ lông thay
đổi nhiều màu sắc, mèo rừng không giấu phân,
nhưng mèo nhà thường tìm chổ kín để phóng
uế, nên tục ngữ có câu
“giấu như mèo
giấu cứt”. Các nhà khoa học khám phá ruột của
mèo nhà dài hơn mèo rừng, bộ óc nhỏ hơn 30% vì
ảnh hưởng đời sống và thực phẩm mèo
nhà nhỏ con, xương mặt rộng và mõm ngắn ,
cấu tạo răng cũng khác.
Mèo nhà có thể phân biệt hai nhóm: mèo lông ngắn và
lông dài có
lẽ nguồn gốc từ mèo rừng Châu Phi
người Ai Cập đã thuần hóa đầu tiên.
Từ đó du nhập đến các quốc gia đầu
tiên Hy Lạp, La Mã, các thủy thủ mang về Ấn
Độ khoảng 500 TCN; Trung Hoa 400 sau CN, Nhật 999
năm SCN; Norwegen; Byzanz
(Istanbul) 400 năm SCN; Pháp và Quebec thế kỷ thứ 16,
Mỹ 1620… Vùng
Đông Nam Á có mèo Xiêm (Thái Lan), thông minh, dễ dạy,
bắt chuột giỏi. Có giả thuyết cho rằng mèo
Xiêm cũng bắt nguồn từ mèo Siam.
Những thế kỷ qua mèo
được lai giống đẹp, được
nhiều gia đình yêu thích nuôi dưỡng khắp nơi
trên thế giới như: Mèo Iran (Ba Tư) lông dài mặt tịt
(Persian); Mèo Maine Coon, Mèo Exotic (gần giống
mèo Iran khuôn mặt tròn tịt dễ
thương nên tạm gọi là Iran lông ngắn)
Abyssinian; Mèo Siamese; Mèo Ragdoll; Mèo Sphynx không lông;
Mèo Miến Điện (Birman); Mèo Mỹ lông
ngắn (American Shorthair); Mèo Oriental; Mèo Tonkinese;
Mèo Norwegian Forest Cat; Mèo Cornish Rex lông xoăn thanh
mảnh, ngộ nghĩnh; Mèo British Shorthair; Mèo
Devon Rex lông xoắn; Mèo Burmese; Mèo tai cụp
(Scottish Fold); Mèo Ocicat; Mèo xanh Russian Blue; Gấu
mèo Mau Ai Cập (Egyptian Mau); Mèo Somali cute; Mèo
thỏ Manx không đuôi; Mèo Siberian cute; Mèo Nhật
đuôi cụt (Japanese Bobtail); Mèo lông xoăn Selkirk Rex;
Mèo Pháp Charteux; Mèo Thổ Nhĩ Kỳ Turkish
Angora; Mèo Mỹ tai vểnh (American Curl); Mèo Colorpoin
Short Hair; Mèo European Burmese; Mèo mun Ấn Độ
(Bombay); Mèo Mã Lai Singapura; Mèo Mỹ đuôi
cụt (American Bobtail); Mèo Korat; Mèo Bali (Balinese);
Mèo Havana Brown; Mèo "hổ ưa
nước" Tukish Van;
Mèo Javanese; Mèo Ragamuffin; Mèo Mỹ lông dày
(American Wirehair); Mèo lông xoăn dài LaPerm….
Mèo lông
dài (Langhaarkatzen/longhair) có bộ lông xù tuyệt đẹp
được lai giống thuần dưỡng các
loại mèo: Balinse, Perserkatze từ 1620 ở Perien nhập
cảng sang Ý rồi đến Anh Quốc từ thế
kỷ 19, nặng từ 3,5- 7 kilo. Mũi ngắn, rộng,
tai nhỏ nhọn lông phủ kín, mắt to tròn, chân ngắn
mập.
Norwergische Waldkatze khoảng 1000 năm sau Công nguyên (SCN)
từ Byzanz nhập cảng sang Norwegen, nặng từ 3-9
kilo, đầu như hình tam giác, tai rộng cao, mắt
lớn
Mèo Cymric
còn có tên „Cymru“ (Walissch für Wales) ở Mỹ, Canada nguồn
gốc từ Bắc Mỹ nặng 3,5- 5,5 kilo. Đầu
tròn cổ ngắn, chân trước ngắn hơn chân sau,
đặc biệt loại nầy không có đuôi (schwanzlos)
Mèo tai nhỏ Scottish
Fold nặng 2,4- 6 kilo chân dài thon nhỏ, mắt to
đầu tròn, tai nhỏ, vành tai cụp vào đầu
như mèo bị cắt tai, thích sống yên tĩnh.
Mèo Türkisch Van: có trước
thế kỷ 18, nặng
từ 3-8,5 kilo, tai lớn cao, mắt to hình oval, chân dài
trung bình, đuôi dài nhiều lông
Mèo Türkisch Angora từ thế kỷ thứ 15,
nặng từ 2-5 kilo thông minh nhanh nhẹn đầu
nhỏ cổ thon, tai lớn dài, mắt hình oval, đuôi dài
nhiều lông như một cái chổi, đẹp nhất
loại lông màu tam thể. Từ thế kỷ thứ 17
nhập sang Anh-Pháp tới thế kỷ thứ 20 nhập
cảng sang các quốc gia khác.
Mèo Nga (Russian cat) có lông xù dài, màu trắng, mắt
xanh lơ chân to,
giống như mèo Iran, nhưng mèo Iran có bộ lông 2 lớp
với lớp lông dài phía ngoài và lớp lông ngắn khá dày
ở bên trong. Đuôi của chúng luôn xù rất nhiều màu
lông khác nhau, giống mèo này mũi nhỏ và mắt to
Mèo Mỹ lông ngắn được xem là mèo
đến đất Mỹ đầu tiên năm 1620 trong con tàu Mayflower/ Hoa
Tháng Năm. Thủy thủ của đoàn Pilgerväter/Pilgrims
nuôi mèo bắt chuột phá phách hàng trên tàu đến vùng
Plymouth/ Massachusetts (nguồn gốc Thanksgiving). Thời gian
trôi qua, giống mèo sinh sản tại Bắc Mỹ
được lai giống với các loại mèo lông dài,
lông ngắn, để tạo ra một loạt các mèo con
xinh xắn đủ chủng loại, thân dài hay mập,
những bộ lông màu sắc đẹp, tính tình dịu
dàng nhu mì và thân thiện. Năm 1906, hiệp hội CFA
đã chính thức công nhận các giống mèo đáng yêu này.
Mèo
Anh, loại lông ngắn phổ biến và được
yêu thích. Hội đồng quản lý mèo Anh (UK's Governing
Concil of the cat fancy) công nhận từ năm 1944, khi nó
vượt qua giống mèo Thái.
Mèo nhân sư
không lông theo tên của Ai cập cổ „Sphinx“ (hay là loài mèo
Canada) „haarlos/ Hairless“. Nặng 3,5-7 kilo, tai lớn
đầu dài và rộng là giống mèo hiếm thấy trong
họ hàng nhà mèo. Được tìm thấy từ năm
1966 khi tại Toronto, Canada có một chú mèo con không lông có tên
Prune từ lúc sinh ra đến khi trưởng thành chỉ
có những sợi lông tơ! toàn thân là những nếp da
nhăn nheo, nên thân nhiệt cao hơn mèo có lông. Mèo Sphynx rất thân thiện và quý
hiếm. Con mèo này sau đó còn giao phối với mẹ
của nó và sinh ra thêm nhiều chú mèo không lông khác. Và đây
được coi là tổ tiên của loài mèo không lông ngày
nay.
Tập tính
của Mèo
Mèo không có các
xương đòn cứng, xương sống của mèo
có nhiều đốt di chuyển dễ dàng, có thể chui
qua những lỗ nhỏ leo trèo nhanh, mèo đi trên các ngón
chân có lớp đệm, Xương đuôi dài để
giữ thăng bằng, thân thể mèo cấu tạo 7
đốt sống cổ, 13 đốt sống ngực, 7
lưng và 3 hông, tùy theo đuôi dài hay ngắn mèo có từ 14
đến 28 đốt sống đuôi. Thân mèo mền
mại nằm ngủ có thể cuộn tròn cơ thể,
chân có vuốt nhọn, các vuốt chân trước sắc
hơn chân sau đều thu lại nằm trong da và lông bao
quanh đệm ngón chân, nên đi rất nhẹ. Từ trên
cao rơi xuống mèo có
phản xạ tự xoay thân tới vị trí thích
hợp và rơi chân xuống trước. Mèo có bộ ria
dài nhiều sợi đẹp, giúp mèo tránh không bị
vướng cây lúc đi.
Mèo cái tìm mèo
đực trong mùa động tình, thường tiết ra
mùi và tiếng kêu đặc biệt hấp dẫn ... Mèo
mang thai từ 57 đến 70 ngày, khi sanh mèo thường
tìm chổ kín, đẻ mèo con trong bọc mèo mẹ
liếm sạch bao cho mèo con chào đời, đôi khi sinh
một đàn 2 đến 6 con nhỏ khoảng 100gr, bú
sữa mẹ một tuần sau mở mắt. Từ
một tháng tuổi trở đi chạy nhảy leo trèo và
bắt mồi nhỏ, lúc nhỏ mèo mẹ ngậm cổ
mèo con mang đi, từ 4 tháng mèo trưởng thành có thể
bắt mồi. Mèo sống lâu
trên 10 năm, không thích tắm nước nhưng có thói quen
thè lưỡi tiết nước bọt vào chân của nó
bôi lên toàn thân để làm sạch cơ thể, chải
chuốt lông. Ban ngày mèo thích
ở chổ kín yên tĩnh ngủ nhiều giờ, hoạt
động vào buổi sáng sớm hay về đêm, mắt
mèo có tầm nhìn tốt nhất vì bóng tối tạo ra
một màng lưới thị giác sáng hơn. Sự
biến đổi màu sắc của mắt mèo giữa ánh
sáng và màng trạch, ban ngày nơi trời sáng tròng đen
của mèo khép lại để khỏi bị lóa mắt.
Mèo nhìn rộng từ 200° bis 220°. Mắt mèo có 9 màu khác nhau:
Braun/brown, Kupferfarbe /copper color, Golden, Babyblau,
Siamblau, Birmablau, Meergrün/ Sea Green,
Reines Grün/ Pure Green, Haselnussfarbe.
Mèo uống nước rất nhanh lưỡi chạm
nhẹ mặt nước kéo theo một lượng
lớn nước, một tốc độ quá nhanh khó có
thể nhìn thấy bằng mắt thường, mèo không
nhận được vị ngọt của
đường, nhưng xúc giác của mèo rất nhạy
bén và tai mèo rất thính. Mèo ăn thịt cá nhưng đôi
khi cũng nhai cỏ tươi để giúp cho sự tiêu
hóa.
Mèo Trong Tín Ngưỡng
Mèo gần đời sống con
người, nên có nhiều truyền thuyết, thần
thoại, tranh, tượng…được thần thánh hoá. Tuy nhiên, mèo thỉnh thoảng bị coi là ma quỷ, ví
dụ như nó không mang lại may mắn hay thường
đi liền với những mụ Phù thuỷ trong
thời Trung cổ. Đặc điểm nền Văn hóa Ai Cập cổ
đại về nông nghiệp, họ theo tôn giáo đa
thần thờ nhiều thần linh. Biểu hiện
nữ thần Bastet/ Pasht (Bastet được coi là vợ của thần mặt
trời Re, mẹ của sư tử thần Mahes. Bastet
mình sư tử đầu mèo là sức mạnh của
mặt trời, bảo trợ cho sự phì nhiêu và tình
Mẫu tử. Nữ thần Bastet được thờ ở thành
phố Bubastis, cách Cairo khoảng 50 dặm, thuộc phía
đông vùng đồng bằng sông Nile. Di tích còn sót lại của ngôi
đền 2.200 năm tuổi tôn thờ một nữ
thần mèo Ai Cập, được tìm thấy gần ga
tàu điện ở Alexandria). Mèo sinh
trưởng nhanh biểu tượng cho hạnh phúc và tình
yêu. Theo nhà sử học người Hy Lạp Herodot (484-424 TCN) thời ấy nếu con
mèo trong nhà chết, cả chủ nhà lẫn tôi tớ
phải cạo lông mày và làm lễ tang long trọng. Nếu
mèo nuôi trong các đền thờ thì cả xóm làng, thành
phố đó phải để tang. Sau khi chết, mèo
được ướp xác và chôn riêng ở một nghĩa trang, chọn nơi rất cao
quý. Địa vị cao quý của loài mèo có lẽ bắt
nguồn từ khả năng bắt chuột tài tình ở
các vựa lúa của Ai Cập. Sự sùng kính quá độ
này đã gây không ít tai họa, ai vô tình làm chết mèo bị
kết tội tử hình.
Một số huyền thoại về mèo: con mèo của tiên tri Hồi giáo Mohammed, xe của nữ thần Freya
luôn luôn vẽ hai con mèo, cầu
Devil về
mèo. Các ngôi
đền đứng ở Tokyo Go-To-Ku-Ji, vinh danh mèo
"Neko Maneki".
Văn chương, chuyện
cổ tích, Phim và tác phẩm nghệ thuật
Các chuyện cổ tích của nhà văn
Äsop thế kỷ thứ 6 trước CN, đến nhà
thơ La Fontain (1621-1695), Carlo Collodie (1826-1890), Rudyard Kipling
(1865-1936), beatrix Potter (1866-1943), Kathleen Hale (1898), Humorist Edward
Lear (1812-1888), Lewis Carroll (1832-1898), Theodor Suess Geisel(1904-1991) và
nhiều tác giả viết về mèo hấp dẫn làm
độc giả say mê. Truyện
cổ Nước Nam sự tích con chuột và con mèo.
Nhật có sự tích mèo Kitty không miệng..
Phim với hình ảnh mèo một thời
nổi tiếng như: Batman (1966);
Batman Returm (1992); Frühstück bei Tiffany (1961) do nữ tài
tử Audry Hepburn đóng được giải
thưởng PATSY (Picture Animal Top Star Awards of the Year).
Die unglaubliche reise (1963); Harry und
Tonto (1973); Die schöne und das Tier (1945); Cat& Dogs (2001); Rosenkrieg
(1989) Die Nacht der tausend Katzen (1972); Katzenmenschen (1942); Die Schwarze
Katze (1985); Superman (1978); Die katze aus dem Weltraum/ The Cat from Outer Space (1978) …
Phim hoạt
hình hiện đại, mèo là nhân vật chính: Họ Mèo tội phạm (1993), phim Walt Disney, mèo quý tộc (1970), Fritz the Cat (1972), Disney Chip und Chap . Những cuộc phiêu lưu của Al Katzone, những
kẻ thù vĩnh cửu của chuột Mickey và Goofy, Pat
Sullivan (1917), các nhân vật hoạt hình Felix the Cat, trong
đó một con mèo đen được trình bày như là
một diễn viên hài dễ thương. Các loạt phim
hoạt hình Tom & Jerry (1939) mèo nhà Tom chơi với
những con chuột Jerry thông minh, Alice in Wunderland, Petersburger
Nacht.. Felidae (1994) Babe (1995), Stuart Little (2000)…
Mèo trong nghệ
thuật, danh họa Pablo Picasso (1881-1973) rất yêu thích vẽ tranh mèo, tác phẩm
nổi tiếng là „Cubist
cat/Kubistische Katze“; Francesco
Bassno (1549-1529) với tranh „Das
letzte Abendmahl/ bửa ăn tối cuối cùng) có mèo và
chó nằm
dưới bàn; Joseph Wright (1734-1797)
tranh „Das Ankleinden der Katze“; Hsuan Tsung ở thế kỷ 18 “vườn xuân mèo trèo cây“ trong bảo tàng viện New York. Các danh họa Nhật
của thế kỷ 18 &19 Utamaro (1753-1806) Kokusai những
tác phẩm „beginnings
of racial breeding/anfänge der Rassezucht“; Mädchen,
das eine diebische Katze bestraft/Girl who punished their impish cat“
Hí hoạ quảng cáo khắp
mọi nơi đều gặp mèo, hoạ sĩ Nga Zar
Peter d.Gr „đám tang mèo “; Jean Cocteau (1889-1963) tranh “Club des amis des chats“; Louis Wain tác
phẩn “dạo phố/
Stadtbummel“; Hiroshi Fujimoto (1934-1996) tác phẩm „Doraemon“ … Nhiều huy hiệu, tượng mèo bằng
sứ, đồng, nhựa nổi tiếng qua nhiều
thời đại…
Ngành
Y Khoa, mèo được xem là
mẫu thí nghiệm rất tốt. Schröginger đưa thí
nghiệm mèo về “Hiện
tượng cơ học lượng tử“. Việc
phân tích trình tự genome của mèo có thể giúp dẫn
đến những khám phá mới, tạp
chí "Nghiên cứu bản
đồ gene" các nhà khoa học Mỹ đã giải
mã bản đồ gene hoàn chỉnh đầu tiên của
mèo hy vọng tìm ra nguyên nhân và
cách chữa trị nhiều căn bệnh hiểm nghèo
ở người. Tuy nhiên nuôi mèo phải cẩn
thận tránh bệnh truyền nhiễm do Toxocara Cati (giun đũa mèo), người bị
bệnh có thể bị sốt, xanh xao, gầy ốm, ho
khò khè kéo dài. Phải tắm mèo để tránh mồ hôi mèo
gây nên bệnh dị ứng, nuôi mèo ở Tây phương
tốn kém phải có bác sỹ Thú y khám sức khỏe
định kỳ, chải lông, xỉa răng cho mèo…
Hà Nội „đổi mới“ có nghiã trang, Hotel, Chùa cho mèo chó có tên “Tề
đồng vật ngã” nghĩa là vật và người
cũng giống nhau, nhưng cũng lắm hàng quán bán
thịt mèo „tiểu hổ“, mèo chó không dám thả ra ngoài
sợ bắt ăn thịt…Bệnh viện „Pet Health“ chửa bệnh mèo
chó, trong khi trẻ em Việt Nam còn thiếu ăn không
đủ tiền đi học. Các „đại gia-cán bộ“
thích nuôi „mèo hai chân“.Anhören
Umschrift
Wörterbuch
- Detaillierten Wörterbucheintrag anzeigen
…
Thực
vật có loại cây Râu mèo/ Orthosiphon có dược tính dùng
trị bệnh thận, phù thủng, tiểu
đường. Loại Táo mèo gọi là Sơn tra trị
áp huyết, an thần…nhiều cây mang tên mèo: cây râu mèo,
nấm mèo, cây bút mèo, cây lưỡi mèo…
Mèo qua thi ca
Từ nông thôn đến thành thị,
người ta đều nuôi mèo để bắt
chuột, (người Tây phương nuôi mèo làm kiểng)
trong dân gian có nhiều tranh như: „miêu
thủ lễ“, „Đám rước ông Nghè Chuột vinh quy
bái tổ“, mèo tha con cá, tranh mèo chuột, chuyện
Trạng Qùynh ăn cắp mèo của vua. Bài quyền “Miêu tẩy diện” (mèo rửa mặt) nổi tiếng khắp
làng võ Bình Định mô phỏng theo thế
đánh nhu nhuyễn, linh hoạt của mèo..
Qua ca dao
truyền khẩu rực rỡ tinh hoa của thi ca bình dân,
diễn tả đơn sơ trong sáng nhẹ nhàng. Mèo già khóc chi chuột chết, ý nói người đạo đức
giả không thực lòng mấy
khi mèo chê thịt chuột, mèo nào
chẳng ăn vụng, như mèo thấy mỡ, chỉ sự thèm khát danh lợi
chạy chọt mua bằng giả để có điạ
vị, uy thế trong xã hội dễ ăn hối lộ,
tham nhũng như cán bộ CS
thấy nơi nào có đất bán được thì bán
để vinh thân phì gia, đúng là loại mèo mù vớ cá rán. Rình
như mèo rình chuột,
Mèo đàng gặp chó
hoang là những kẻ vô
loại kết bè tựu đảng với nhau.
Con mèo làm
bể nổi rang,Con chó
chạy lại phải mang lấy đòn
những việc oan ức, Mèo tha miếng thịt thì đòi, Kễnh tha con lợn
mắt coi chừng chừng Ám
chỉ đời sống xã hội bất công, kẻ có
quyền hành ăn hối lộ, cướp đất
của dân làm việc sai trái thì được bao che,
ngược lại khi kẻ dưới sai sót nhỏ
bị trừng phạt nặng.
Đánh
giặc mà đánh bằng tay, Thà về xó bếp
giương cung bắn mèo.Trường hợp nầy rất
giống hiện tình Việt Nam bị bọn Tàu xâm
chiếm biển đảo, bắt ngư dân đánh cá trên
biển Việt Nam để tống tiền, đánh
đập giả man, nhưng đảng cầm quyền
Việt Nam chỉ phản đối bằng miệng không
dám cho tàu Hải quân hoạt động vùng biển tranh
chấp, bảo vệ chủ quyền và ngư dân trên
biển đảo mà cha ông chúng ta bỏ xương máu
giữ vững hàng ngàn năm qua. Chúng ta
là người thừa kế, phải bảo vệ bờ
cõi để xứng đáng hãnh diện với tổ tiên,
với chính bản thân và với con cháu chúng ta là
tương lai đất nước sau này.
Đặng Tiểu Bình (邓小平理论) theo phe
ủng hộ sự thay đổi nền kinh tế Trung
Hoa, chủ trương cải cách mở cửa, tiếp
xúc với văn minh Tây phương để phục
hồi phục hồi kinh tế, ông đã nói: „Mèo đen
hay mèo trắng không quan trọng miễn là nó bắt
được chuột.“. Mèo yếu đuối hơn
chó, thường bị chó rượt cắn uy hiếp,
nhưng đôi lúc mèo cũng tự hào ta ở trên cao
để chọc tức con chó đang hầm hừ
dưới gốc cây
Con mèo
trèo lên cây vông
Con chó
đứng dưới, ngó mông con mèo
Mèo
rằng sao chó chẳng theo
Lên
đây, mèo sẽ dạy leo cho mà.
Những câu ca dao ngụ ngôn là những bức tranh
nhỏ có tính cách tâm lý, mèo chuột là hai địch
thủ, không thể sống với nhau.
Con mèo
trèo lên cây cau
Hỏi
thăm chú chuột đi đâu vắng nhà
Chú
chuột đi chợ đường xa
Mua
mắn mua muối giỗ cha chú mèo
Qua bốn câu ca dao hài hước
trên, nói mèo đạo đức giả, để chế
giễu những người giả nhân giả nghiã,
vờ vĩnh của phường nham hiểm, con chuột
cũng không vừa, thông minh biết mắng xéo, mỉa mai
chú mèo. Ca dao tuy mang hình thức trào lộng về mèo,
nhưng có nhiều ngụ ý khuyên răn ở đời dù
ai có địa vị, có tài cũng phải khiêm tốn
đừng tự cao, huênh hoang như mèo khen mèo dài đuôi.
Năm
mèo nói chuyện mèo, dù không đầy đủ mong
độc giả đóng góp cho đề tài về mèo phong
phú hấp dẫn hơn. Kính chúc quý vị một mùa xuân an
bình, khoẻ mạnh và may mắn
Tài liệu tham khảo
Katzen Die neue Enzyklopädie tác giả Dr. Bruce Fogle NXB Dorling
Kindersley 2002
Hình trên
Internet
Tiere und Lebensräume
Wissensbibliothek