NGƯỜI ĐỨC ĐÓNG GÓP CHO
KHOA HỌC và NHÂN VĂN
Nguyễn Quý Đại
Những thế kỷ
trước con người phải đương
đầu với thời tiết, thiên tai và các bệnh
như: dịch tả, dịch hạch, ho lao, thương
hàn, đậu mùa...Vì sinh tồn, con người đã
khắc phục và vượt qua. Sự thành đạt
nầy do việc nghiên cứu và phát minh của những nhà
bác học trên thế giới. Cuối thế kỷ 18 và
đầu thế kỷ thứ 19, người Đức
đã đóng góp lớn lao cho thế giới về khoa
học, kỹ thuật, văn học, thi ca, triết
học và âm nhạc .
Dân tộc
Đức thông minh, sáng tạo, năng động, cầu
tiến. Người lao
động chân tay cũng như trí thức đều làm
việc đúng giờ, tôn trọng ý kiến xây dựng
trong nghề nghiệp, sống có nề nếp, trật tự,
kỷ luật. Người tài được giữ
chức vụ cao đúng khả năng với công việc
phát triển khoa học, kỹ thuật và kinh tế,
họ không bị chi phối bởi các đảng phái chính
trị. Thế kỷ thứ 18 các nước Âu Châu phát
triển về công nghiệp mạnh, nước
Đức còn thua xa Anh Quốc, vì sự cạnh tranh
về phẩm chất hàng hóa nên năm 1887, chính quyền Anh ban hành luật “Merchandise Marks
Acts“ bắt buộc hàng nhập cảng từ Đức
phải mang nhãn hiệu „Made in Germany“. Hàng sản xuất
với nhãn hiệu từ Đức lúc đầu chưa được
ưa chuộng mấy về phẩm chất, nhưng
nhờ sự cải tiến, phát triển không ngừng,
nên sau đó hàng sản xuất ra thị trường càng
ngày càng có phẩm chất tốt, bền, đẹp
hơn được thế giới ưa thích.
Việt Nam ảnh hưởng
thời thuộc địa Pháp, hàng hoá sản xuất
từ Pháp (Made in France) được đánh giá phẩm
chất cao đẹp, nên người Việt chuộng
hàng của Pháp hơn. Ít người biết đến
hàng mang nhãn hiệu Made in Germany. Về vấn đề
Văn hoá, kỹ thuật và khoa học của Đức
cũng không được ảnh hưởng sâu rộng.
Thời Việt Nam Cộng Hòa cho đến năm 1973, có
khoảng 2000 sinh viên từ miền Nam du học ở Tây
Đức, sau năm 1975 phần lớn những cựu
sinh viên du học thành tài đều ở lại
Đức.
Những phát minh của
người Đức cho thế giới
Những
nhà bác học người Đức đóng góp rất
nhiều cho Y khoa, khoa hoc, vật lý, toán học..
Johannes
Gutenberg (1390-†1468) nổi
tiếng vì phát minh ra phương pháp in dấu năm 1450 góp
phần cho việc in ấn phát triển nhanh hơn về
khoa học kỹ thuật. Đến
năm 1810- 812 thì Friedrich König (1774-†1833) sáng chế máy in nhanh hình trụ (Zilinder)
thời đó vượt kỷ lục in 1000 trang/1giờ.
Thành lập Cty König & Bauer cho đến ngày nay và Ernst Vogel
thành công với phương pháp in ba màu.
(hình Johannes Gutenberg)
William
Herschel (1738-†1822) nhà
thiên văn học phát hiện Thiên Vương Tinh năm
1781 và bức xạ tia hồng ngoại,
từ ngoại của Ritter,
Johann Wilhelm
Ritter (1776-†1810) là nhà
khai sinh ra hóa học mới, điện giải và tách
được đồng và bạc, sau đó phát hiện
tia cực tím, utraviolet, bạc clorua silver chloride.
Carl Friedrich
Gauss (1777-†1855) cùng
Whilhelm Weber phát minh điện tín bằng điện
tử tại Göttingen dựa trên định luật
cảm ứng của Faraday, có thể truyền đi
khỏang 3km phát minh đầu tiên. Ông được mệnh danh là "hoàng
tử của các nhà toán học" và
„lý thuyết chuyển động của thiên thể“
Joseph
Fraunhofer (1787-†1826)
đưa ra lý thuyết nhiễu xạ ánh sáng, phát hiện
các vạch quang phổ sắc nét và tối trong quang phổ
mặt trời, được mang tên „vạch Frauenhofer“
Friedrich
Krupp (1787-†1826) thành
lập nhà máy đúc tại Essen, năm 1826 người con
kế nghiệp cha là Alfred Krupp (1812-†1887) thành công biến nhà máy nhỏ thành lập Cty
khổng lồ tại Âu Châu để sản xuất
vũ khí, đại bác có tầm bắn xa, tốc độ
bắn nhanh hơn, và cũng chính xác quân
Phổ (Đức)
đánh
thắng Hoàng đế Napoléon III. Về kỷ nghệ đúc thép còn có nhà máy
tại Berlin-Tempelhof của August Borsig (1804-†1854) từ năm 1841 chế
tạo đầu máy xe lửa danh tiếng có tên „Borsig
Lokomotive Werk-GmbH“
Georg Simon Ohm (1789-†1854) ở Erlangen phát minh
định luật về điện trở mang ký
hiệu (Symbol Ω). 1Ω bằng điện
kháng giữa hai điểm trong một filiform, đều
tempered conductor và kim loại đồng nhất, mà trong
điện điện áp của 1 volt (V) giữa hai
điểm cố định một temporally điện
hiện tại sức mạnh của 1 ampere (A) in
SI-Eiheiten
Chritian
Friedrich Schönbein (1799-†1868) ở Baden Baden
phát minh nitrozellulose loại chất nổ mới có sức
công phá mạnh hơn thuốc nổ cũ
Friedrich
Wöhler (1800-†1882) ở
Escherheim tổng hợp được hợp chất hữu
cơ từ những vật vô cơ. Là người sáng
lập ngành hoá hữu cơ, chế acid
sulphuric và tách được cocain, tổng hợp
được urê và acit Oxalit, (đã giúp Liebig thành công
chế phân bón vào nông nghiệp và sinh lý học ) Wöhler
chế tạo nhôm, tách nhôm thành sản phẩm tốt và
định được tỷ trọng.
Julius Plücker (1801-†1868) và Heinrich Geißer (1814-†1879) nghiên cứu khi hiện tượng dòng
điện chạy qua ống thủy tinh chân không
“Gasentladungsröhre“ phát ra tia sáng, „ Geißlerschen Röhre“ tiền thân
cho loại đèn quảng cáo ngày nay. Năm 1869 Johann Wilhelm
Hittorf (1824-†1914) ở
Bonn tiếp tục nghiên cứu chứng minh trong ống
thuỷ tinh „Hittorfröhe“ ở áp suất khí thấp sự
phát sáng biến mất nhưng ở thành ống
đối diện với tia cathot sẽ sáng lên, phải có
một dòng điện âm đi xuyên qua ống thuỷ tinh,
mắt thường không thể nhìn thấy, tia cathot khi
đi qua chạm vào thủy tinh phát sáng (fluorescene/huỳnh
quang). Tia sáng được Eugen Goldstein (1850-†1930) gọi là tia Kathodenstrahlen/
cathode ray tubes, tiếp theo những nhà nghiên cứu phát
hiện electron cho ngành vật lý nguyên tử.
Christian
Doppler (1803-†1853) phát
hiện hiệu ứng mang tên ông, là sự thay đổi
tần số theo vận tốc tương đối
giữa nguồn phát âm và người quan sát, ứng
dụng trước cho âm thanh học sau đó cho thiên
văn, vật lý và y khoa.
Justus von Liebig (1803-†1873) nhà hóa
học đóng góp to lớn trong lĩnh vực nông
nghiệp là "cha đẻ của ngành công nghiệp phân
bón". Hoá học hữu cơ trong ứng dụng của
nó vào nông nghiệp và sinh lý hóa. Ông đã mang lại cuộc
cách mạng cho nông nghiệp canh tác biết dùng phân bón làm cho
đất màu mỡ, thu hoạch thực phẩm tăng
đáp ứng đời sống con người sung túc
hơn
Whilhelm Weber
(1804-†1891) ở Wittenberg đo được tỷ
lệ giữa cường độ điện từ và
tĩnh điện bằng tốc độ ánh sáng, phát
minh điện tín bằng điện từ dựa theo
định luật của Faraday, đây là điện tín
đầu tiên của thế giới
Robert Wilhelm
Bunsen (1811-†1899) nhà Hoá
học ở Göttingen chế tạo nhôm bằng điện
phân nóng chảy nhôm là vật liệu cần thiết
để sản xuất trong ngành chế tạo máy bay.
Julius
Robert Mayer (1814-†1878) là bác
sĩ cũng là nhà Vật lý, phát minh
định luật bảo toàn năng lượng làm
ảnh hưởng lớn đến các ngành khoa học
với tập xét về lực lượng, tính
chất của inanimate „Bemerkungen über
Kräfte der unbelebten Natur/ Remarks on forces of inanimate nature“.
Werner von Siemens (1816-†1892) ở Lenthe gần Hanover là người sáng
lập ra hãng SIEMENS. Ông
nghiên cứu thành công phương pháp mạ vàng bạc lên
kim loại và sau đó ông thành công trong việc nghiên cứu
ra một loại pháo bông đủ màu sắc. Thành công này
làm chấn động dư luận bấy giờ. Ông
được hoàng gia chiếu cố và cuộc sống
bắt đầu thay đổi. Tiếp theo, hàng loạt
thành công về nghiên cứu
phát minh và kinh doanh: dùng acid khắc bản đồng,
phát minh kỹ thuật in kẽm, dùng cao su bọc dây
dẫn điện. Ông thành công đường điện
tín Âu Ấn, đường cáp ngầm xuyên Đại Tây
Dương. Sau hàng loạt những phát minh, sáng chế,
Siemens còn tuyển dụng nhiều nhân tài kiệt xuất,
chuyên gia chế tạo máy phát điện (dynamo) ra đời năm 1866 và máy biến
thế để truyền tải qua một khoảng cách
lớn với điện thế lớn, xe
điện, vô tuyến truyền hình, xe lửa… Công ty
SIEMENS từ năm 1847 phát triển và thành công. Gia đình
của anh em Siemens để lại di sản lớn cho
nhân loại (hình Werner von Siemens)
Công ty quang
học Carl Zeiss (1816-†1888)
hợp tác với nhà toán học và vật lý Ersnt Able (1840-†1905) Otto Schott chế tạo
những loại kính hiển vi đặc biệt, chính xác,
kính chụp ảnh. Ngày nay Zeiss là công ty kính quang học
nổi tiếng thế giới dùng làm thiết bị trong
ngành giải phẫu về mắt và chế tạo
microchips…
Max
Josef von Pettenkofer (1818-1901) ở Donau nghiên cứu các yếu
tố ảnh hưởng
đến sức khoẻ và bệnh tật, những
kế hoạch y tế trong việc chữa trị và phòng
ngừa. Rút tỉa ra định nghĩa căn bệnh,
liên hệ từ nguyên nhân đến triệu chứng và
tạo kế hoạch điều trị hay phòng ngừa.
Từ đó ngành y tế ra đời
Rudolf Virchow
(1821-†1902) phát hiện bệnh là do
sự biến đổi vật lý, hoá tính trong tế bào (
Zellularpathologie) Tế bào là nhân tố của sự sống
Hermann von Helmholtz (1821-†1849) ở
Berlin đóng góp quan trọng trong một số lãnh vực
khoa học, Sinh lý học, chuyên về các tính toán của
mắt, các lý thuyết về sức nhìn và cảm nhận
về không gian của mắt, các nghiên cứu thị
lực màu. Năm 1851 Helmholtz đã làm một cuộc cách
mạng trong khoa khám chữa mắt với phát minh kính soi
đáy mắt (ophthalmoscope); một dụng cụ dùng
để khám phần bên trong của mắt. Phát minh này
đã làm ông nổi tiếng thế giới ngay lập
tức. Các điều Helmholtz quan tâm vào lúc đó tập
trung thêm vào sinh lý học của các giác quan.
Friedrich Siemens (1826-†1949) là em của Werner V. Siemens, năm 1864 phát
minh phương pháp luyện
thép „S
–M-Stahl“
Nicolaus
August Otto (1832-†1891) đã
có nhiều người nghiên cứu cách chế tạo máy
xe, trước khi Otto phát minh thành công việc chế
tạo động cơ 4 thì, có khả năng ứng
dụng thực tiễn tại Köln. Sau đó Benz, Maybach và
Daimler chế tạo được những chiếc xe
giúp phương tiện lưu thông cho nhân loại
Johann Philipp
Reis (1834-†1874) ở
Friedrichsdorf người đầu tiên sáng chế
điện thoại năm 1861 tại Frankfurt am Main, sau đó Alexander Grahm Bell
(1847-†1922) và Edioson tiếp tục
nghiên cứu thành công và đưa vào việc sản
xuất.
Adolf von Baeyer (1835-†1917) ở Berlin phân tách và tổng hợp
thuốc nhộm (organischen Farbstoff). Năm 1905 nhận
giải Nobel về hóa học
Ernst von Bergmann (1836-†1807)
năm 1885 thực hiện được phương
pháp sự vô trùng Asepsis
Ferdinand Graf von
Zeppelin (1838-†1917) ở Konstanz là
sĩ quan cấp tướng về hưu, năm 1914
chế chiếc phi thuyền „Zeppeline“ với khung thành
cứng thành công, dài 150-160m và 22.000- 25000 m³ có thể tải
nặng 9 tấn, vận tốc 80 km/h với 3 Motoren
của Wilhelm Maybach (3 x 147 KW= 3x 200PS). Bay vòng quanh trái
đất, năm 1928 đáp xuống Tokyo. Từ kết
quả nầy cha con Maybach thành lập công ty "Luftfahrzeug-Motorenbau-GmbH
Bissinger“. Chiếc phi thuyền nầy năm 1997 tại
Friedrichshafen gần Bodensee chế tạo theo kỹ
thuật mới năm 2001 thu hút được nhiều
người.
Carl von Linde
(1842-†1934) ở Berndorf Oberfranken,
nghiên cứu hóa lỏng được
khí ở nhiệt độ -191o C. Sau đó cất
được không khí, để sử dụng trong nghành
điện lạnh và oxy lỏng cho công nghiệp luyện
thép. Chế máy lạnh bằng ammoniac để sử
dụng làm nhà máy nước đá, trong các nhá máy chế
beer, thực phẩm…
Robert Koch (1843-†1910), phát hiện vi khuẩn lao, dịch tả,
sốt thương hàn, loại vi khuẩn gây ra bệnh
than (Milzbrandbazillus) và chế được Tuberkulin,
một protein chiết xuất từ muối cấy vi trùng
lao, dùng để thử nghiệm xem một người
đã mắc bệnh lao hay đã tiếp xúc với
bệnh lao hay chưa? ông là cha đẻ của ngành vi khuẩn học
(Hình Robert Koch)
Wilhelm
Conrad Röntgen (1845-†1923),
nhận giải Nobel đầu tiên trong lịch sử
(1901), năm 1895 ông thí
nghiệm với tia cathot gồm dòng electron trong ống
thủy tinh thành công, phát
hiện ra từ ống nghiệm chứa tia cathot bị
phủ kín hoàn toàn, một vài loại hình của tia bức
xạ không thể nhìn thấy. Ông gọi bức xạ
không nhìn thấy là tia quang tuyến X các ẩn số trong
đại số học, được áp dụng
rộng rãi trong công nghệ và ngành Y Khoa
gọi là Röntgen. Việc sử dụng tia quang
tuyến X trong việc xác định bệnh lý về
xương, và các bệnh tật khác trong cơ thể.
Georg Ferdinand Ludwig Philipp Cantor (1845-†1918)
ở St. Pertrburg. Ông là người nổi tiếng vì đã
tạo ra lý thuyết tập hợp, lý thuyết trở
thành mộtl ý thuyết nền tảng trong toán học.
Hibert gọi đó là „ tinh hoa
đáng ngưỡng mộ nhất của trí tuệ con
người“
Wilhelm
Maybach (1846-†1929) ở
Reutlinger Maybach gặp Gotlieb Daimler
(1834-1900). Daimler đã
phát triển về tốc độ cao và động
cơ xăng, xe bốn bánh có motor. Wilheim Maybach trở thành
người cộng sự, người bạn thân
thiết cho đến khi Daimler mất. Tháng 9 năm 1869,
ông chuyển đến Karlsruhe cùng Daimler và tham gia vào công ty
"Gasmotorenfabrik Deutz". Việc này cho phép ông nghiên
cứu để thiết kế những động
cơ đốt trong có tốc độ cao và trọng
lượng nhẹ, thích hợp cả dưới
nước và trên cạn.
Năm
1882 Daimler rời Gasmotorenfabrik Deutz và cùng Maybach đến
làm việc cho Cannstatt. Năm 1885, một động cơ
mới được lắp vào một chiếc xe
bằng gỗ, và một năm sau đó là chiếc xe
ngựa. Wilheim Maybach nhanh chóng nhận ra rằng ông không
thể chỉ bằng lòng với việc lắp
động cơ cho xe ngựa. Ông thiết kế xe hơi 4 thì
chạy bằng xăng, chấm dứt kỷ nguyên xe
ngựa ông đóng góp phát triển cho ngành kỹ nghệ xe hơi. Năm 1895 ông đã
thiết kế chiếc xe động cơ 4 xy lanh
đầu tiên. Về ngành xe hơi Đức là quê hương
đầu tiên của thế giới. Công trình của
nhiều người đóng góp đó là : Nicolaus Otto, Gottlieb
Daimler, Wilhelm Maybach và Karl Benz
phát triển động cơ hai thì và bốn thì cho các loại
xe hai, ba, bốn bánh và thuyền.
Otto
Lilienthal (1848-†1896)
thực hiện được giấc mơ bay của con
người, đóng góp lớn cho ngành hàng không, năm 1891 một
loại „máy bay“ đơn giản chỉ gồm các cánh dài
nối lại với nhau và gắn chặt với thân mình
ông được thả bay từ trên đồi cao. Nên thời
đó người ta gọi ông là "người chim".
Năm 1896 ông qua đời trong lúc đang bay thử ở
độ cao khoảng 7 m, bị cơn gió mạnh thổi
tới làm máy bay rơi xuống, tính đến ngày tử
vong ông đã thực hiện hơn 2000 chuyến bay. (hình Otto
đang bay lượn)
Oskar Hertwig
(1849-†1922) ở Friedberg năm 1875 nghiên cứu
tế bào, các di truyền. Chứng
minh sự thai nghén là kết quả của sự kết
hợp giữa hai tế bào sinh sản đực và cái
(1875 erstmals beim Seeigel die Befruchtung einer weiblichen Eizelle durch eine
männliche Keimzelle).
Karl
Ferdinand Braun (1850-†1918) phát
hiện sự ghép nối kim loại và bán dẫn hiệu
ứng chỉnh lưu, một hiệu ứng căn
bản cho nghiên cứu và ứng dụng trong ngành sản
xuất „chip“ điện tử Semiconductor sau này. Ông chế
tạo ống Braum từ ống tia cathot phấn quan
trọng của dao động ký (Oscillograph) là dạng
đầu tiên của ống hình và vô tuyến truyền
hình, Ông cũng hoàn chính kỹ thuật điện tín không
dây và ngành vật lý về tần số cao „
Hochfrequenzphysik“.
Emil Fischer (1852-†1919) năm 1902 tổng hợp về
đường và Purine
Arthur
Nikolair phát hiện trực khuẩn gây ra phong đòn gánh, thì
Emil von Behring (1854-†1917) ở
Rosenberg, từng phụ tá cho nhà vi trùng học Robert Koch. Behring chế được serum,
đặc biệt là cách sử dụng để chữa
bệnh bạch hầu /Diphtherie và phát
hiện kháng độc tố cho bệnh phong đòn gánh/Tetanusheilserum. Behring nhận giải „Prix Alberto Levi“
của Pháp (1895), và giải Nobel đầu tiên về Y Khoa
(1901)
Sigmund Freud
(1856-†1939) ở Freiburg là bác sĩ
về thần kinh và tâm lý cùng Josef Breuer
(1842-†1925) người Áo mở đầu môn phân tâm học là
những nghiên cứu về Hysterie (các bệnh tâm lý
cuồng loạn). Phương pháp
phân tâm học của ông với các phương pháp
điều trị khác .
Max
Planck(1858-†1947) nghiên cứu
về Lý thuyết
lượng tử (Quantentheorie) qua phát hiện lượng
tử căn bản là thành tựu khoa học lớn
nhất của Max Planck . Theo thuyết của Planck, từ
tính của một lượng tử ánh sáng phụ
thuộc vào tần số ánh sáng và tỷ lệ với
khối lượng vật lý (ký hiệu: h) trong nguyên
tử. Bức xạ phát ra của nguyên tử không liên
tục mà theo các bậc năng lượng E=h.v (E là
năng lượng, h là hằng số Plank, v là tần
số), ông nhận giải Nobel
năm 1918.
Rudolf Diesel (1858-†1913) ở
đại học München chế tạo máy nổ Diesel
chạy bằng dầu cặn, sử dụng chất
đốt cho ra nhiều năng lượng, ông cho ép
chất đốt và không khí mạnh hơn một máy
nổ xăng và làm cho hỗn hợp nóng đến
độ có thể cháy mà không cần lửa, trong nhà máy cơ khí Ausburg. (là
nhà máy MAN). Tàu thủy
được trang bị động cơ diesel
đầu tiên ra đời năm 1903. Năm 1908
động cơ Diesel loại nhỏ đầu tiên, xe
tải và đầu tàu hỏa Diesel đầu tiên
được chế tạo. Động cơ diesel dùng
cho xe hơi được chế tạo hàng loạt
lần đầu tiên trong năm 1936
(chiếc Mercedes đầu tiên 35 PS)
Ludwig Knorr
(1859-†1921) ở München chế
Anitipyrin thuốc hạ nhiệt và giảm đau, sau Joseph Liter (1827-†1929) người
Anh phát minh việc
điều trị vết thương bằng
phương pháp khử trùng.
Carl Ludwig Schleich (1859-†1922) ở Stettin là nhà giải phẩu
học, sáng tạo được
kỹ thuật gây mê cục bộ (Lokalanäthesie)
Eduard Buchner
(1860-†1917) tìm ra Enzyme phát hiện
zymase là chất làm nên quá trình lên men.
Robert Bosch
(1861-†1942) thành công trong việc
tổng hợp ammoniac từ khí Nitơ trong không khí và hydro trong nước.
David Hilbert (1862-†1943) ở Königsberg là một nhà toán học
lớn cuả Đức đóng góp cho nền toán học,
được công nhận như là một trong
những nhà toán học có ảnh hưởng rộng
lớn nhất của thế kỷ 19 đầu thế
kỷ 20. Ông thiết lập tên tuổi như là một nhà
toán học và nhà khoa học vĩ đại bằng cách
phát minh hay phát triển một loạt các ý tưởng khác
nhau, chẳng hạn như: Lý thuyết bất biến,
tiền đề hoá hình học và khái niệm không gian là
những nền tảng của giải tích hàm. Hilbert và các
học sinh của ông đã xây dựng đủ hạ
tầng cơ sở toán học cần thiết cho cơ
học lượng tử và thuyết tương
đối rộng. Ông là một trong những sáng lập
viên của lý thuyết chứng minh logic toán học và
sự phân biệt giữa toán học và meta toán học. Ông
sử dụng và bảo vệ lý thuyết tập hợp
của Cantor và các số siêu hạn (transfinite number).
Hilbert đầu tiên liệt kê các khái niệm chưa
định nghĩa: điểm, đường thẳng,
mặt phẳng, nằm trên (một quan hệ giữa các
điểm và các mặt phẳng),sự nằm giữa,
sự đồng dạng giữa các cặp điểm,
và sự đồng dạng giữa các góc. Những tiên
đề này thống nhất cả hình học phẳng và
không gian. Trên mộ bia của
ông được ghi nhớ Wir müssen wissen, wir werden wissen
- Chúng ta phải biết, chúng ta sẽ biết.
Einstein (1879-†1955) làm cuộc cách mạng khoa học lần
thứ hai [1],
Einstein đã làm đổ vỡ nền móng của khoa
học cổ điển, bằng lập luận khoa
học xác đáng, phủ nhận sự tồn tại
của chất ether, và do đó phủ nhận luôn cả
hai cái tuyệt đối của khoa học cổ điển
(không gian tuyệt đối,và thời gian tuyệt
đối) bằng Thuyết tương đối
bất hủ của mình. Thuyết tương đối
của riêng Einstein là phiến đá tảng của nền
khoa học và công nghệ hiện đại đem lại
cách nhìn hoàn toàn mới mẻ về các vấn đề:
không gian, thời gian, vật chất và năng
lượng.
Albert
Einstein đưa ra Thuyết Tương Ðối năm 1916
làm nền tảng của khoa học và không gian E = mc2
(Energy E of a body is equal to its mass m, multiplied with the
square of the speed of light, c.) trọng lượng chính là
thước đo cho năng lượng chứa trong
một vật, chính xác hơn, năng lượng của
một vật bằng trọng lượng, nhân với
bình phương vận tốc ánh sáng
Otto Heinrich Warburg (1883-†1970)
ở Freiburg phát hiện ra nguồn gốc về bản
chất và chức năng của các Atmungsferments. Khám phá
Cytochromoxidase, nghiên cứu trên metabolism của các tế bào
ung thư và các câu hỏi căn bản của các tế bào
hô hấp. Năm 1923 ông đã thành công trong việc giải thích về phân tử,
quá trình hô hấp của tế bào và tham gia việc xác
định các enzymes, ông nghiên cứu vai trò của việc
truy tố sắt và đồng, và các vitamin như là
một phần của enzymes và coenzyme. Dựa trên
điều tra về tumors bioneergetischen, về sự phát
triển của bệnh ung thư. Ông nhận Nobel năm
1931
Otto Fritz Meyerhof (1884-†1951) ở Hannover đã khám phá
ra mối liên quan giữa sự tiêu thụ oxygen và sự
chuyển hóa của acit lactic trong cơ bắp (muscle
metabolism) và sự phân glucoza (glycolysis) nhận
giải Nobel 1922
Năm
1891, Oskar von Müller cùng với AEG (Allgemeine
Elektrizität-Gesellschaft/General Electricity Company)
thành công trong việc dựng đường điện
truyền tải dài với 200-220 KW với điện
thế 30.000 volt. Công ty AEG sản xuất các hàng
điện, đến turbine điện, đầu máy xe
lửa... Năm 1913 ngành đồ điện Đức
phát triển mạnh thành công xuất cảng khắp
thế giới. Phương pháp làm việc "Qualität bekommt man nicht geschenkt, Qualität muss täglich neu
erarbeitet werden/ Quality
does not get a gift, quality must be developed day by day“ tạm
dịch „ Phẩm chất không phải vật biếu không, phẩm chất phải
được phát triển hàng ngày"
Wernher von Braun (1912-†1977)
ông lãnh đạo chương trình
năm 1942 phát triển chế hỏa tiền rakete A4
(A4 - A für Aggregat) sau đó "Vergeltungswaffe 2" (V2) bay xa và
tốc độ nhanh (thời đệ nhị thế
chiến Đức Quốc Xã). Ngày 7. September với 12.000
V2-Raketen bắn sang các quốc gia: Hòa Lan, Bỉ, Anh Quốc
(Niederlande, Belgien und London). Sau thế chiến ông sang Mỹ
làm việctrong cơ quan NASA, trở thành là cha đẻ
chương trình không gian của Mỹ. ( Braun và Rakete)
Văn
Học
Ngoài những đóng góp khoa học thực
dụng hữu ích, về Văn chương, Triết Âm
nhạc. Văn học tiếng Đức từ thời
Trung cổ, những nhà văn được nhận
giải Nobel văn chương
Theodor
Mommsen (1817-†1903) ở
Garding là nhà Sử học lớn
về Lịch sử La Mã.(Römische Geschichte), là nhà văn
người Đức nhận giải Nobel
đầu tiên năm 1902, tiếp theo: Rudolf Christoph
Eucken(1908); Gerhart- Hauptmann (1912);Thomas Mann (1929); Nelly Sachs (1966);
Heinrich Böll (1972), Günter Grass (1999).
Friedrich Schiller (1759-†1875) nhà văn, triết học thuộc
trường phái cổ điển ảnh hưởng
tư tưởng của triết gia Kant (1724-†1804) của nhiều lĩnh vực khoa
học nhân văn khác muốn đóng góp cho nền giáo
dục tốt đẹp, làm phương tiện
đưa xã hội phát triển đẩy lui sự thô
bạo và xuống dốc. Các triết
gia gây ảnh hưởng thế giới: Nietzche, Leibniz,
Kant, Hegel, Schopenhauer, Heidegger….Hai nhà triết học Karl H.
Marx (1818-†1883) và
Friedrich Engels (1820-†1895) là cha
đẻ của chủ thuyết cộng sản, đã
làm cho thế giới điên đảo nhiều thập
niên. (Ngày chỉ cò ữ
n Việt Nam, Trung cộng, Bắc Hàn, Cuba còn theo chủ nghiã
cộng sản!)
Âm
nhạc hội hoạ
Tiếng Đức
„giọng hơi khô“ nhạc tình cảm melodie nghe không hay
như nhạc Mỹ, Pháp, nhưng có những nhà soạn
nhạc lừng danh như :
Ludwig Van Beethoven (1770-†1827)
soạn những hòa tấu cổ điển bất
hủ, dù lúc 40 tuổi ông bị bệnh điếc, không
thể xuất hiện trước công chúng, nhưng ông
vẫn sáng tác, những bản giao hưởng mạnh
mẽ âm hưởng lãng mạn, tự do và đa dạng
diễn tả cái thiện, mỹ ..làm ảnh hưởng
đến những nhạc sĩ giúp cho sự phát
triển nền âm nhạc được thế giới
biết đến Johann Sebastian Bach
Robert Schumann, Richard Wagner, Johannes Brahms, Richard Strass...
(Hàng năm tại nhà hát đặc biệt Festspielhaus thành
phố Bayreuth ngày 25 tháng 7 đến 28 tháng 8 thuộc
tiểu bang Bayern/Bavaria tổ chức Đại Nhạc
Hội Liên Hoan Wagner, rất nhiều người hâm mộ
đến xem, ngày khai mạc thường có Thủ
tướng tham dự, lần trình diễn đầu tiên
vào ngày 13.06.1876 đến nay (2009) được 123 năm
để nhớ lại nền âm nhạc và kịch
nghệ Đức qua những thời hưng thịnh phát
triển và tồn tại)
Nhiều nhà
họa nổi tiếng về nghệ thuật các
trường phái qua các thời kỳ: phục hưng
ở Âu châu, đến thời kỳ lãng mạn, siêu
thực như: Albrecht Altdorfer; Lucas; Matthias Grünewald; Friedrich;
Max Ernst; Joseph Beuys..Tiêu biểu nhất là hoạ sĩ
Albrecht Dürer (1471-†1528) tại Nürnberg
với tác phẩn nổi tiếng „Thăng thiên và Đăng quang Maria“
Người
Đức di cư sang Mỹ như: Heinrich Steinweg đã đổi tên thành Henry Steinway
thành lập công ty Steinway & Sons tại New York sản xuất
đàn Piano. Ở Đức, ông đã từng sản
xuất đàn Piano nỗi tiếng tại Wolshagen. Ông Löb
Strauss quê ở Buttenheim, tiểu bang Bavaria sang Mỹ lập
nghiệp đổi tên là Levi Strauss, thành lập công ty Levis
Strauss & Co sản xuất quần Jeans từ năm 1853 ở
San Francisco.
Trong bài sưu khảo ngắn
nầy, không tránh những thiếu sót tên tuổi các nhà : bác
học, nhà văn, triết gia, nhạc sĩ khác của Đức đã
đóng góp sự khai phóng cho nhân loại. Rất nhiều
nhà bác học Đức nhận giải Nobel [3]
các ngành từ năm 1901-2009: Vật lý 22 người; Hoá
học 24 người; Y khoa và Triết 15 người;
Văn chương 7 người; Kinh tế 1 người,
Hòa bình 5 người.
Phần
lớn những người được nhận
giải Nobel là người Mỹ, điều nầy dễ hiểu vì Hoa kỳ là
Hiệp chủng quốc miền đất hứa đã
thâu nhận nhiều nhân tài trên thế giới, và những
người ở các quốc gia Âu Châu có truyền thống
phát triển về Khoa học lâu đời. Tuy nhiên
vấn đề làm cho chúng ta suy nghĩ năm 1973 giải
thưởng Nobel hoà bình trao cho Henry Kissinger và Lê Đức
Thọ. Vấn đề chính trị đã làm mất
đi giá trị giải Nobel hoà bình đã trao năm
đó! Mong một ngày trong
tương lai sẽ có nhân tài thật sự là
người Việt Nam được vinh dự nhận
giải Nobel. Dân tộc Trung Hoa thường tự hào có
nền văn hoá lâu đời, hơn một tỷ
người nhưng chỉ có hai người đều
học tại đại học Chicago Hoa Kỳ năm 1946
là: Chen Ning Yang 楊振寧(1922-)
và Tsung-Dao Lee 李政道 (1926-) nhận chung giải Nobel Vật lý về
“Elementary particle“ năm 1957 [4].
Những đại học lâu
đời danh tiến của Đức như:
Đại học Heidelberg (1386); ĐH Köln (1388); ĐH
Erfurt(1392); ĐH Leipzig (1409); ĐH Rostock (1419) ĐH Freiburg
(1457); ĐH Basel (1460; ĐH Ingolstadt(1472), ĐH Tier (1473)
ĐH Mainz và ĐH Tübingen (1477). Bắt đầu thế
kỷ thứ 15 nhiều đại học ra đời,
trong thời gian từ 1865-1890 các trường bách khoa
kỹ thuật (Polytechnika) được chuyển thành
đại học kỹ thuật bắt đầu là
đại học Karlsruhe (1865) ĐH München (1868) ĐH Berlin
(1879) ĐH Aachen (1870); ĐH Danzig 1904; ĐH Breslau (1910) [5]
Đại
học Đức chú trọng sự (Einheit der Lehre und
Forshung) sự thống nhất giữa dạy học và
nghiên cứu, (Lehrfreiheit) tự do dạy, (Lernfreiheit) tự
do học. Sự giảng dạy tự do gắn liền
với nghiên cứu độc lập, đáp ứng khoa
học phải độc lập và thuần túy. “Mục đích thật sự
của đại học không phải là học, mà là
sự đánh thức một cuộc đời mới
trong thanh niên một tinh thần khoa học“. Ngoài các
trường đại học, ở Đức còn có nhiều
Viện nghiên cứu và Trung tâm thí nghiệm. Những trung
tâm Vật lý ở Berlin, Göttingen và München
đóng góp thành công vẻ vang cho khoa học Đức và thế
giới.
Trải qua những thời
hưng thịnh
Nước Đức có nhiều
nhân tài nên ngành kỹ nghệ nặng phát triển mạnh
như luyện thép, sản xuất các loại xe
được nhiều người ưa thích Mecerdes Benz,
BMW, WV, Audi, xe bus hãng Man về Quốc phòng sản xuất
xe tăng tối tân “Leopards“..., Thành phố Munich thuộc
tiểu bang Bavaria có những hãng sản xuất xe như:
BMW diện
tích rộng 500.000 m². Có chiều
dài 1km ngang 500m, 9000 công nhân sản xuất, 1000 người
học nghề, học 300 nghề khác nhau mỗi năm
theo nhu cầu sản xuất 200.000 xe và 300.000 Motoren.
Tất cả 33.000 công nhân viên, làm
việc từ hành chánh, nghiên cứu và sản xuất. Khởi đầu từ năm 1916 chế tạo máy
bay „Bayerischen Flugzeug Werk Bavarian Airplane Factory/Bavarian
Airplane Airplane Factory“. Năm 1918
đổi thành BMW AG, sản xuất Automobiles,
motorcycles, engines, components. Có nhiều
chi nhánh sản xuất trên 12 quốc gia, cung cấp xe cho
140 nước, có chi nhánh ở Hà Nội. Toàn thế
giới có 105,8 ngàn công nhân viên, riêng tại Đức có
80.020 người. (năm 2009 chỉ còn lại 99.112
ngưòi). Tổng kết 2 quý đầu năm 2009 sản
xuất it hơn chỉ 127.547 chiếc, vì lượng xe bán
ra thị trường kém, doanh thu giảm 10,9%, chỉ đạt 13 tỷ euro
cho đến cuối năm BMW có thể lỗ đến
1 tỷ €, nên có chương trình cắt giảm, tiết
kiệm tới năm 2012 phải đạt là 6 tỷ €,
hãng xe lớn nhất thế giới Toyota, báo lỗ
lớn sau khi doanh số bán giảm trong quí hai, cũng
như các hãng xe khác cùng một trình trạng lỗ vốn
Hãng MAN (1758) đến năm 2009
kỷ niệm 251 năm thành lập, Tổng số
công-nhân-viên làm việc ở Đức 36.331 người và
các chi nhánh ở nước ngoài 21.872 người, tổng
số 50.468 người, (năm 2009 cắt giảm còn
49.472 người) hàng năm đào tạo 800 các chuyên viên
kỹ thuật với 27
ngành nghề khác nhau.Nửa năm 2009 hợp đồng
đặc hàng trị giá 4,6 tỷ € it hơn năm qua
49%! MAN sản xuất các loại
xe Bus,
Diesel, Turbo machine, industrial services. München
có nhiều trung tâm nghiên cứu về kỹ nghệ
nặng, điện tử… nhiều chi nhánh sản
xuất ngành điện tử lớn các hãng: Siemens(1846),
Infineon(1999), Epcos(1999). Những công ty ngành hoá chất danh
tiến như Bayer, Hoechst, BASF “Badische Anilin & soda Fabrik“,
Merck, Schering
Lịch
sử nước Đức cũng lắm thăng
trầm, Thế kỷ thứ 19 Đức muốn thoát khỏi sự kiềm
tỏa của Anh-Pháp, đòi hỏi một thị
trường, thuộc địa tương xứng
với tiềm lực cường quốc thế giới
của mình. Mở rộng vùng ảnh hưởng về
phía Đông tại Ba Lan, Ukraina, Baltic, sau đó là phần Lan trong đệ nhất thế
chiến (1914-1918). Hitler
cầm đầu, điên cuồng gây nên đệ nhị
thế chiến (1939-1945), và giết 6 triệu người
Do Thái, là nỗi kinh hoàng của nhân loại và chắc chắn
sẽ còn tồn tại khi nào mà con người còn sống
trên quả đất. và Đức bị thua trận, bom đạn tàn phá quê
hương chia đôi 2 miền Đông và Tây. Nhưng Tây
Đức đã phục hồi kinh tế trở thành
cường quốc giàu có nhất Âu châu. Từ ngày 3.10.1990, Đức thống nhất, dẹp bỏ
bức tường ngăn cách. Hơn 40 năm dưới
chế độ cộng sản, Đông Đức đã làm cho xã hội suy
sụp, để có quân bình đời sống sau khi
thống nhất, chính phủ bỏ tiền tái thiết xây
dựng lại quê hương mới cho phiá Đông (DDR),
phải trả số nợ còn lại thời CS, cũng
như kinh phí trả cho hơn 300 ngàn quân đội Nga rút
về nước...
Các hãng xưởng máy móc
dưới thời Đông Đức không thể sản
xuất cạnh tranh với thị trường tự do,
phải đóng cửa hàng loạt, tạo nên làn sóng
thất nghiệp. Làm cán cân 2 miền Đông Tây chênh
lệch thêm. Người bên phiá Đông bỏ nhà cửa,
làng mạc chạy sang Tây tìm việc làm. Những
người bỏ vốn đầu tư xây nhà bên
Đông Đức bị thua lỗ. Tiếp theo các
nước Đông Âu cũng như Liên Sô bỏ chủ
nghiã CS, chấm dứt chiến tranh lạnh. Các
nước Đông Âu thị trường sản xuất
giá rẻ như bên Tàu, Mã lai... Vì nhu cầu, các công ty của Đức đã dời
đến nơi nào sản xuất có giá rẻ, để
cạnh tranh với thị trường thế giới,
giá rẻ hơn sản xuất từ bản xứ „Made in
Germany „. Lý do trả tiền lương công-nhân-viên tại Đức
quá cao và làm việc 35 giờ một tuần, nghỉ phép
thường niên 30 ngày, (nếu bị bệnh 6 tuần
lễ được trả lương) có thêm
lương tháng 13. Nghiệp đoàn lao động
thường đòi tăng lương hàng năm. Trong khi
đó, các nước Á châu như: Đại Hàn, Trung
Quốc... làm việc trên 50 tiếng một tuần với
tiền lương rẻ mạc. Vì vậy các hãng
xưởng dời ra nước ngoài, sa thải
người. Hiện nay người Đức có khuynh hướng không nhập hàng „Made in China“ vì
phẩm chất kém mau hư, tốn tiển sửa, có
chất độc hại sức khỏe….
Các ngành may mặc, giày dép...của
Đức được chuyển sang sản xuất
tại Việt Nam, mang trở về Đức tiêu
thụ. Riêng xe Mecerdes loại xe 14 chổ, sản xuất
ngay tại Sai Gòn để đáp ứng thị
trường nội địa với giá rẻ, nhưng
chắc chắn về phẩm chất không thể so sánh
với hàng gốc sản xuất từ Đức. (ở
Đức các đời xe sản xuất, dù bán ra thị
trường cả năm, nhưng nếu phát hiện
lỗi kỹ thuật, đều được thu
hồi đưa cho khách hàng xe mới)
Các ngành kỹ
nghệ nặng của Đức phát triển hàng
đầu, tạo nên nền kinh tế vững mạnh,
nhưng càng ngày đời sống vàng son ở Đức
trở nên đen tối vì nạn thất nghiệp đang
đe dọa vì khủng hoảng kinh tế. Đức
cũng như các nước Âu Châu, Hoa Kỳ, một
thời thịnh vượng giàu có về kinh tế,
nhưng bị ảnh huởng nặng nề của
cuộc suy thoái kinh tế thế giới từ năm 2008.
Thị trường chứng khoán rơi như lá mùa thu,
tình hình kinh tế tài chính thế giới
các nơi vẫn mong manh, tiến trình tự do dân
chủ, tại các quốc gia độc tài cộng sản
cũng bị chậm lại. Mong Kinh tế thế giới sớm phục hồi
để chúng ta có cuộc sống an bình, thịnh
vượng để nhìn thế hệ kế tiếp
vươn lên, phát triển và đóng góp cho khoa học, kinh
tế tiến bộ hơn trong hòa bình tràn đầy yêu
thương.
Trông
người mà nghỉ đến quê hương
Các
nước Tây phương nhờ có các đại
học khoa học Kỹ thuật nên đã có sự phát
triển về kỹ nghệ nặng, đào tạo
nhiều nhân tài cho thế giới. Trong khi ở Việt Nam
năm 1076 vua Lý Nhân Tông cho mở trường Quốc
Tử Giám, tiến sỹ Chu Văn An (? -†1370)
là "Khoa trưởng hay Hiệu
trưởng đầu tiên " trường
nầy dành cho con các quan lớn! Từ năm 1434 trở
đi biện pháp mới được áp dụng trong toàn
quốc, những ai đỗ cao nhất trong các kỳ thi
Hương (cử nhân) nhận vào học tiếp, nhưng
chỉ học theo lối từ chương thi phú,
chương trình áp dụng cho tới triều đại
nhà Nguyễn.
Nỗi buồn làm
dân nô lệ gần 100
năm giặc Pháp đô hộ, Pháp không muốn
khai phá dân tộc Việt Nam, chương trình giáo
dục bị giới hạn, bởi vì còn chậm tiến
thì dễ cai trị.
( hình lớp học thời xưa)
Nguyễn
Trường Tộ (1828-†1871) dâng lên
Triều đình những bản Điều trần
đề xuất canh tân xây dựng đất nước
giàu mạnh, muốn cải cách chương giáo dục
chủ trương coi trọng dân, sửa đổi
chế độ thi cử mở mang việc học hành,
thay đổi nội dung giáo dục, lấy Quốc
ngữ thay thế chữ Hán, để có thể theo
kịp văn minh Tây phương. Từ năm 1909 quốc
ngữ được đưa vào chương trình thi Hương,
cho đến năm 1924 Pháp đưa quốc ngữ vào
chương trình tiểu học: Quốc ngữ chính
thức công nhận là chữ viết của dân tộc
Việt Nam
Các phong trào Duy Tân, Đông Du năm (1906-1908?).
Trường Đông Kinh Nghiã Thục Hà Nội (1907-1908)
mở để phục vụ cho phong trào thực hiện
cải cách xã hội và tranh đấu với Pháp, đòi
hỏi mở trường đại học tại
Việt Nam! Đại
học Đông Dương/ Université Indochinoise) là
một cơ sở giáo dục bậc đại học
ở liên bang Đông Dương do chính quyền đô
hộ Pháp thành lập vào năm 1906. Nhưng phải
chờ mười năm sau, ngày 21 tháng 12 năm 1917. Toàn
quyền Đông Dương lúc ấy là Albert Sarraut ra
một quyết định thành lập đại học Đông
Dương 1918. (Trước đó chỉ có trường
chuyên nghiệp Y Khoa, Dược Khoa trường Công Chánh
1902).
Năm 1919 các kỳ
thi Nho học được bải bỏ toàn quốc,
chấm dứt Nho học, không còn ảnh hưởng
văn hóa Trung Hoa. Chương trình giáo dục thay đổi
dưới thời toàn quyển Varenne ban hành quy
định bằng tú tài bản xứ (baccalauréat local).
Kỳ thi đầu tiên tú tài phần 1 năm 1928, và
phần 2 năm 1929. Giai đoạn đó toàn quốc chỉ
có 2 trường trung học có ban tú tài bản xứ là
Perus Ký (Sài Gòn) và trường Bảo Hộ ở Hà Nội
(trường Bưởi). Đại học Hà Nội
(1918). Huế là Kinh đô nhưng trước
năm 1936 trường Quốc Học Huế chỉ
dạy hết bậc cao tiểu học (trung học
đệ nhất cấp) bằng cao tiểu còn gọi là
bằng thành chung (Diplôme d’ Etudes Primaires Supérieures). Từ
năm 1936-1937 trường Quốc học đổi thành
Khải Định bắt đầu mở ban tú tài. Đại
học Sài Gòn có trước 1930, (mặc dù Sài gòn là Hòn
ngọc viễn đông ”La perle de l’Extrême Orient” ảnh
hưởng văn hóa Pháp trước tiên, trường
Tabert sáng lập đầu tiên 1874)[6],
các trường trung học hay chuyên nghiệp cao
đẳng được mở thêm, nhưng chưa
đáp ứng được nhu cầu. Cho đến ngày
bị chia đôi đất nước 20.7.1954. Quân
đội Pháp triệt thoái khỏi Việt Nam tháng 9
năm 1956.
Chính phủ VNCH tiếp tục mở các
trường đại học công lập, cũng như
đại học tư thục tại miền Nam ra
đời đáp ứng cho sự phát triển xây dựng
đất nước. Nhưng tiếc thay cuộc
chiến hơn hai năm điêu linh, khói lửa ngành giáo
dục 2 miền Nam-Bắc bị trì trệ, chênh lệch.
(Chương trình giáo dục ngoài Bắc trung học
chỉ học đến lớp 10 sau đó vào đại
học, ngược lại trong miền Nam theo
chương trình Pháp phải học đến lớp 12,
trải qua 2 kỳ thi tú tài khó khăn ). Thống nhất
đất nước chế độ cộng sản
chủ trương giáo dục nặng phần „hồng hơn chuyên„ làm suy
giảm tiềm năng của thế hệ trẻ khó phát
triển. Sinh viên phải tự do học và nghiên cứu
độc lập như các nước văn minh Tây
phương[7] phải
phát triển toàn diện, tránh trường hợp học
như vẹt, sao chép luận án. Đại học mênh mông
không bờ bến nghiên cứu là con đường dài vô tận,
học để khám phá việc chưa biết và không
biết.. Giới trẻ Việt Nam trong nước
cần phải thắp sáng ngọn đuốc, mở
đường cho việc nghiên cứu phát triển khoa
học, kỹ thuật, kinh tế, thương
mại cho dân tộc Việt Nam tiến lên với văn
minh của thế giới.
Người Việt Nam thông minh
nhưng không có cơ hội phương tiện để
phát triển tài năng, điều nầy đã chứng
minh thế hệ thứ 2 đang sống ở
nước ngoài rất thành công, trên mọi phương diện đóng
góp vào những chương trình không gian như NASA...
rất nhiều sinh viên Việt Nam học giỏi nổi
tiếng ở các trường Đại học
kỹ thuật, Kinh tế, Thương mại… Đem lại
vinh dự chung cho dân tộc Việt Nam
(Những nhà Bác
học Đức với những phát minh thời gian khác nhau, nhưng tôi
sắp xếp theo năm sinh bắt đầu lớn
tuổi nhất từ 1390... trẻ 1912…. ngoại trừ
phần các tác giả về văn chương hội
hoạ)
Tài
liệu tham khảo
Nước
Đức thế kỷ thứ XIX của tiến
Sĩ Nguyễn Xuân Xanh
Lexikon Der
Geschichte (Faktum) & Wikipedia
Những
hình trên nguồn từ Internet