LỜI THỀ
BỐN KHÔNG NGÀY 2-9
Trần Gia Phụng
Trong lễ ra mắt chính phủ
Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (VNDCCH) ngày 2-9-1945 tại Hà Nội, Hồ Chí Minh
(HCM) đưa ra lời thề hết sức long trọng.
Trước khi đề cập đến lời thề ngày 2-9-1945 của HCM, xin sơ lược tiến
trình cướp chính quyền của HCM và Mặt trận Việt Minh (VM).
1.- MẶT TRẬN VIỆT MINH
Việt Minh là tên tắt của Việt
Nam Độc Lập Đồng Minh Hội do Hồ Học Lãm thành lập ở Trung Hoa năm 1936. Hồ Học Lãm có bí danh là Hồ Chí Minh, già
yếu, ít hoạt động nên nhóm cộng sản Việt Nam (CSVN) ở Trung Hoa chiếm dụng
danh xưng của hội nầy năm 1940. (Hoàng Văn Hoan, Giọt nước trong biển cả, hồi ký, Portland, Oregan: Nhóm Tìm Hiểu
Lịch Sử, 1991, tr. 134.)
Lúc đó, nhân cơ hội Quốc-Cộng
Trung Hoa liên kết lần thứ 2 từ 22-9-1937 để chống Nhật, đảng Cộng Sản
Trung Hoa (CSTH) hoạt động công khai trở lại. Vào mùa thu 1938, Liên Xô gởi Nguyễn Ái
Quốc (NAQ) đến Diên An (Yan An), phía bắc tỉnh Thiểm Tây (Shaan Xi), nơi đặt
bộ chỉ huy đảng CSTH. (Qiang Zhai, China
& Vietnam Wars, 1950-1975, University of North Carolina Press,
2000, tr. 11.)
Đầu năm 1939, NAQ xuống Hoa
Nam (miền nam Trung Hoa) với bí danh mới là Hồ Quang. (Chính Đạo, Hồ Chí Minh, con người & huyền
thoại, tập II: 1925-1945, Houston: Nxb. Văn Hóa, 1993,tt. 176-178.) Từ đây, Hồ Quang bắt liên lạc và hoạt động
với cơ sở hải ngoại của đảng CSĐD do Phùng Chí Kiên phụ trách. (Phùng Chí
Kiên là bí danh của Mạch Văn Liệu.)
Năm 1941, Hồ Quang (NAQ), với
bí danh khác là Già Thu, về Việt Nam, sống ở Pắc Bó (Cao Bằng), tổ chức Hội
nghị Ban chấp hành Trung ương đảng CSĐD lần thứ 8 từ 10 đến 19-5-1941, lập
Mặt trận Việt Minh ở trong nước. Sau
đó, Hồ Quang trở qua Trung Hoa
, chiếm dụng luôn bí danh Hồ Chí Minh của Hồ Học Lãm từ tháng 8-1942. Hồ Chí Minh (NAQ) bị bắt tại trấn Thiên Bảo
(Quảng Tây) ngày 29-8-1942 và được tha ngày 10-9-1943. (Chính Đạo, Việt Nam niên biểu nhân vật chí, Houston: Nxb. Văn Hóa, 1997,
tr. 168, và Chính Đạo, Hồ Chí Minh,
con người & huyền thoại, tập II,sđd. tt. 278, 283.)
Gốc là một điệp viên cộng sản
quốc tế, Hồ Chí Minh (NAQ, Hồ Quang) gia nhập Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh
Hội, gọi tắt là Việt Cách, để do thám.
Việt Cách là một tổ chức chính trị Việt Nam tại Trung Hoa theo chủ
nghĩa dân tộc, được chính quyền Trung Hoa Quốc Dân Đảng (THQDĐ) hỗ trợ. Với sự đồng ý và giúp đỡ của tướng Tiêu
Văn (THQDĐ), Hồ Chí Minh (HCM) đem 22 cán bộ, rời Liễu Châu (Quảng Tây)
ngày 8-9-1944, về tới Pắc Bó (châu Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng) vào gần cuối
tháng đó. “Trong số 22 người ấy có một nữ đảng viên tên là Đỗ Thị Lạc là người
sau có đứa con gái với Hồ Chí Minh.
Về sau, thấy người ta nói khi về đến địa hạt Bắc Giang, có ba đảng
viên trong 22 người ấy bị giết vì không chịu theo cộng sản." (Lệ
Thần Trần Trọng Kim, Một cơn gió bụi,
Sài Gòn: Nxb. Vĩnh Sơn, 1969, tr. 75.)
Tuy trở về với tư cách là thành viên của Việt Cách, HCM chỉ hoạt
động cho mục đích của VM cộng sản. Từ đây, HCM chỉ huy VM và trực tiếp chỉ
huy luôn đảng Cộng Sản Đông Dương (CSĐD).
Một trong những việc làm đầu
tiên của HCM là ra lệnh cho Võ Nguyên Giáp thành lập Đội Việt Nam Tuyên
Truyền Giải Phóng Quân, và mở rộng lực lượng du kích VM ở các vùng rừng núi
Việt Bắc. Đội nầy ra mắt ngày
22-12-1944 tại châu Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng, gồm 34 người. Đây là tổ chức tiền thân của quân đội VM
cộng sản. Hồ Chí Minh thông báo cho
các đồng chí của ông biết rằng thời cơ đang đến, nên gấp rút chuẩn bị hành
động.
Tháng 11-1944, một trung uý
phi công Mỹ lâm nạn ở biên giới Việt Hoa, bị VM bắt, và HCM đưa qua Côn
Minh trả lại cho quân đội Mỹ. Hồ Chí
Minh bắt đầu làm quen với người Mỹ, và sau đó hợp tác với nhân viên tình
báo O.S.S. (Office of Strategic Services) của Mỹ từ đầu 1945. Khoảng giữa tháng 4-1945, HCM cùng hai
nhân viên vô tuyến của O.S.S. về vùng viên giới Hoa Việt ở Cao Bằng. Tháng 5-1945, HCM chuyển đến hoạt động ở
Tân Trào, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang. Từ đây, Tân Trào trở thành thủ phủ của
vùng VM. Ngày 16-7-1945, A. Patti
gởi một toán tình báo hỗn hợp do thiếu tá Allison K. Thomas chỉ huy, gồm 6
người (2 Mỹ, 2 Pháp và 2 Việt trong quân đội Pháp), nhảy dù xuống làng Kim
Lộng (Tân Trào, Tuyên Quang). (Archimedes L. A. Patti, Why Viet Nam?, California: University of California Press,
Berkely, 1980, tr. 127.)
Do tin tức tình báo từ phía O.S.S.
Mỹ và cả phía CS, HCM biết chắc chắn Nhật sẽ sụp đổ sau khi bị Hoa Kỳ thả
hai quả bom nguyên tử ngày 6 và 9-8-1945, nên HCM triệu tập Đại hội đảng
Cộng Sản Đông Dương (CSĐD) ở Tân Trào từ ngày 13 đến ngày 15-8-1945, lập “Uỷ
Ban Khởi Nghĩa Toàn Quốc” và ra quân lệnh số 1, phát động cuộc tổng khởi
nghĩa, cướp chính quyền ở khắp các tỉnh trong nước.
Lúc đó, đảng CSĐD do HCM lãnh
đạo, chưa có Bộ chính trị, chỉ có Ban chấp hành trung ương đảng, khoảng
dưới 20 người, tổng bí thư là Đặng Xuân Khu, bí danh là Trường Chinh. Số đảng viên khoảng từ 2,000 đến 5,000
người. (Philippe Devillers, Histoire
du Viêt-Nam de 1940 à 1952, Editions Du Seuil, Paris 1952, tr.
182.)
Sau hội nghị của đảng CSĐD,
HCM tổ chức “Đại hội đại biểu quốc dân” ngày 16-8-1945, cũng tại Tân Trào,
gồm khoảng 60 đại biểu, mà VM nói là đại diện các đảng phái, các đoàn thể,
các tôn giáo, các sắc dân trên toàn quốc.
Do HCM sắp đặt, Đại hội tuyên bố tán thành chủ trương phát động tổng
khởi nghĩa của đảng CSĐD, và thành lập “Uỷ Ban Dân Tộc Giải Phóng Việt Nam”,
tự xem là có tính cách như Chính phủ Cách mạng Lâm thời.
2.- VIỆT MINH CƯỚP CHÍNH
QUYỀN Ở HÀ NỘI
Nhật hoàng tuyên bố đầu hàng
ngày 14-8-1945. Tại Đông Dương, bộ
tham mưu Quân đoàn 38 của Nhật đóng ở Hà Nội. Người Nhật chủ trương rằng quân đội Nhật
bại trận, nhưng sẽ không nhượng chỗ cho quân Đồng minh thắng trận, mà chỉ
nhượng cho những ai có khả năng tiếp tục nhiệm vụ lịch sử của Nhật, là giải
phóng châu Á ra khỏi tay thực dân da trắng. (Philippe Devillers, sđd. tr. 136.) Vì vậy, khi Nhật Bản đầu hàng, quân đội
Nhật tại Đông Dương hạ võ khí, rút lui vào các căn cứ quân sự, chờ ngày bị
giải giới, để cho người Việt tự do hoạt động trước khi quân Đồng minh có
mặt.
Trong khi đó, chính phủ Trần
Trọng Kim (TTK) không có bộ Quốc phòng, không có lực lượng võ trang để giữ
gìn an ninh, trật tự và bảo vệ chế độ.
Các cơ quan hành chánh theo truyền thống cũ từ thời Pháp thuộc, chỉ
có một số lính lệ hoặc bảo an binh giữ trật tự các cơ quan, không được
trang bị đầy đủ, có tính cách hình thức hoặc lễ nghi.
Thời gian nầy không có lực
lượng Pháp hay Nhật, cũng không có lực lượng chính phủ, là cơ hội thuận
tiện cho lực lượng VM tung hoành, không bị ai ngăn chận. Đây là một trong những lý do giải thích
vì sao chỉ với một lực lượng nhỏ khoảng dưới 5,000 đảng viên, mà VM cướp
được chính quyền.
Trong lúc tình hình Hà Nội và
miền Bắc xáo trộn, chính phủ TTK ở Huế cử bộ trưởng Hoàng Xuân Hãn ra Bắc,
thay mặt chính phủ giải quyết tại chỗ những vấn đề khẩn cấp. Sau khi gặp các yếu nhân Hà Nội, Hoàng
Xuân Hãn gởi điện về Huế, đề nghị lập một cơ cấu chính trị mới gọi là Uỷ ban
Giám đốc Chính trị miền Bắc (Comité directeur de la politique du
Nord).
Ngày 16-8-1945, chính phủ TTK
đề cử thành phần Ủy ban nầy như sau:
Nguyễn Xuân Chữ (chủ tịch) và bốn uỷ viên là Phan Kế Toại, Trần Văn
Lai, Đặng Thai Mai, Nguyễn Tường Long.
Tuy nhiên, ngoài bác sĩ Nguyễn Xuân Chữ, bốn uỷ viên kia đều vắng
mặt. (Nguyễn Xuân Chữ, Hồi ký, Houston: Nxb. Văn Hóa, 1996,
tr. 280.) Lý do là vì VM đã tung cán
bộ đe dọa từng người. Phan Kế Toại
không xuất hiện (có thể đã theo VM, con là Phan Kế Bảo, một cán bộ VM),
Trần Văn Lai bận việc ở tòa đô trưởng, Đặng Thai Mai hoàn toàn không ra
mặt, Nguyễn Tường Long bị bệnh chưa làm việc được.
Ngày 17-8-1945, Tổng Hội Công
Chức do chính quyền TTK thành lập, tổ chức cuộc mít-tinh tại Nhà hát lớn Hà
Nội, nhằm ủng hộ chính phủ TTK.
Trong khi các diễn giả của Tổng Hội Công Chức đang nói chuyện ở Nhà
hát lớn, thì một người nào đó (chắc chắn là cán bộ VM) ở trên lầu Nhà hát
lớn quăng xuống một lá cờ đỏ sao vàng của VM. Thế là cán bộ VM chụp lấy thời cơ, biến
cuộc mít-tinh của Tổng Hội Công Chức thành cuộc biểu tình tuần hành, quay
qua ủng hộ mặt trận VM. (Theo lời kể của một số người ngày nay lớn tuổi, đã
từng tham dự cuộc mít-tinh ngày 17-8-1945 tại Hà Nội.)
Ngày 19-8-1945, VM tiếp tục
tổ chức biểu tình, chiếm Bắc bộ phủ (phủ toàn quyền Pháp cũ), cướp chính
quyền Hà Nội. Việt Minh làm chủ được
Hà Nội từ ngày 20-8-1945, nhưng những cuộc bạo động vẫn tiếp diễn. Bạo động bắt nguồn từ cả hai phía: Bạo
động của VM tiêu diệt những phần tử đối kháng; bạo động của những đảng phái
quốc gia đối lập chống lại VM.
Ngày 21-8-1945, VM vận động
các đoàn thể họp mít-tinh tại Hà Nội, lập ra một kiến nghị gồm ba điểm: 1)
Yêu cầu vua Bảo Đại thoái vị và giao quyền cho một chính phủ lâm thời do
Mặt trận VM thành lập. 2) Yêu cầu Mặt trận VM thảo luận với các đảng phái
khác để thành lập chính phủ lâm thời. 3) Yêu cầu tất cả các đảng phái, các
tầng lớp dân chúng ủng hộ chính phủ lâm thời để củng cố nền độc lập quốc
gia. Bản kiến nghị nầy được chuyển
bằng điện tín về Huế. (Philippe Devillers, sđd. tr. 137.)
3.- VUA BẢO ĐẠI THOÁI VỊ
Sau khi Nhật hoàng tuyên bố
đầu hàng và VM lộng hành, đại sứ Nhật ở Huế là Massayuki Yokoyama đến gặp
vua Bảo Đại, đề nghị vua Bảo Đại dùng lực lượng của Nhật tiêu diệt VM. Vua Bảo Đại từ chối đề nghị nầy để tránh
nội chiến có thể xảy ra. (Theo lời
kể với người viết tại Sài Gòn năm 1993 của ông Phan Văn Vỹ. Vào năm 1945, ông Vỹ là đệ nhị đẳng thị
vệ của vua Bảo Đại. Ông cho biết ông
là người trực gác buổi tối khi Yokoyama đến gặp vua Bảo Đại và chính ông đã
đánh thức và báo tin với nhà vua, để nhà vua ra tiếp khách.)
Người Nhật còn đề nghị với
thủ tướng TTK. Sau đây là lời trong
hồi ký của TTK: “Lúc bấy giờ người Nhật có đến bảo tôi:
“Quân đội Nhật còn trách nhiệm giữ trật tự cho đến khi quân Đồng minh đến
thay. Nếu chính phủ Việt Nam công
nhiên có lời mời quân Nhật giúp, quân Nhật còn có thể giữ trật tự”. Tôi nghĩ quân Nhật đã đầu hàng, quân Đồng
minh sắp đến, mình nhờ quân Nhật đánh người mình còn nghĩa lý gì nữa, và
lại mang tiếng “cõng rắn cắn gà nhà”.
Tôi từ chối không nhận.” (Trần Trọng Kim, Một cơn gió bụi, Sài Gòn: Nxb Vĩnh Sơn, 1969, tr. 93.)
Vua Bảo Đại quay qua các nước
Tây phương, viết thư gởi tổng thống Hoa Kỳ là Harry Truman và thủ tướng lâm
thời Pháp là Charles de Gaulle, thống chế Tưởng Giới Thạch, quốc vương Anh,
kêu gọi trao trả độc lập lại cho Việt Nam, đừng tái lập nền cai trị Pháp dưới
bất cứ một hình thức nào. Các nước
Tây phương chuẩn bị kế hoạch riêng nên đều im lặng và không trả lời thư của
vua Bảo Đại. (Bảo Đại, Con rồng Việt Nam, California: Xuân
Thu, 1990, tt. 177-179; và David G. Marr, Vietnam 1945, The Quest for Power, University of California
Press, 1995, tr. 361.)
Trong lúc vua Bảo Đại lúng
túng, chính phủ TTK xin từ chức ngày 20-8-1945. Ngày 21-8, vua Bảo Đại lại nhận được điện
tín từ Hà Nội của VM yêu cầu nhà vua từ chức. Trần Trọng Kim khuyên nhà vua giao quyền
cho VM. (Lệ Thần Trần Trọng Kim, sđd.
tt. 92-93.) Bên cạnh vua Bảo Đại,
lúc đó viên tổng lý văn phòng (thư ký của vua) là Phạm Khắc Hòe đã trở mặt
với hoàng gia, ngầm theo VM, hết sức hù dọa nhà vua và hoàng gia. Vua Bảo Đại cảm thấy vừa lo sợ, vừa cô
đơn và bị bỏ rơi (Bảo Đại, sđd.
tr. 184.)
Vua Bảo Đại cô thế, lại không
biết lai lịch HCM và VM. Cũng như
nhiều người Việt lúc đó, nhà vua lầm tưởng rằng HCM và VM là những người
yêu nước, được quần chúng ủng hộ, và được cả các nước Đồng minh giúp đỡ
(theo lời tuyên truyền của VM), nên cuối cùng nhà vua quyết định từ chức,
giao quyền cho HCM và VM.
Ngày 25-8-1945, vua Bảo Đại
tuyên chiếu thoái vị và thông báo cho đại diện VM ở Huế biết. Chiếu thoái vị được niêm yết ở Phu Văn
Lâu, nơi công bố các chiếu dụ, mệnh lệnh của nhà vua, kết quả thi Hội và
thi Đình. Sau đó lễ thoái vị diễn ra
ngày 30-8 tại Ngọ môn, Huế. (Ngọ môn
là cửa chính nhìn về hướng nam của hoàng thành.) Nhà vua trao bảo kiếm và quốc ấn, tượng
trưng uy quyền của triều đình nhà Nguyễn, cho phái đoàn đại diện VM từ Hà
Nội vào là Trần Huy Liệu, Nguyễn Lương Bằng và Cù Huy Cận. Chiếc ấn mà vua
Bảo Đại trao lúc đó là “Hoàng đế chi bảo”, bằng vàng ròng, nặng khoảng 10,5
Kg. (Võ Hương An, Trong ngõ ngách sử
Việt, California: Nxb. Nam Việt, 2014, tr. 171.)
4.- LỜI THỀ BỐN KHÔNG
Sau lễ thoái vị của vua Bảo
Đại tại Huế ngày 30-8, thì tại Hà Nội, HCM gấp rút ra mắt chính phủ lâm
thời VNDCCH ngày 2-9-1945, tại bãi Cột Cờ (Rond point Puginier), mới được
chính phủ TTK đổi tên thành công viên Ba Đình từ đầu tháng 8-1945. Hồ Chí Minh gấp rút ra mắt chính phủ mới
nhằm tạo thế hợp pháp chính thống liên tục từ chế độ cũ qua chế độ
mới. Hơn nữa, phải chăng HCM chọn
ngày nầy vì 2-9, hiểu một nghĩa khác là ngày có 2 số 9, theo câu “cửu cửu
càn khôn dĩ định” trong Sấm Trạng
Trình?
Mở đầu buổi lễ, HCM đọc bản
“Tuyên ngôn độc lập”, rồi HCM mạnh mẽ hô to các lời thề gồm có hai phần:
“Lời thề của chính phủ Lâm thời nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa” và “Lời thề
của Quốc dân”.
Sau đây là nguyên văn “Lời
thề của chính phủ Lâm thời nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa”: “Chúng tôi, Chính phủ Lâm thời của nước
Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, do Quốc dân đại biểu đại hội cử lên, xin thề
rằng: Chúng tôi sẽ kiên quyết
lĩnh đạo toàn dân giữ vững nền độc lập cho Tổ quốc và thực hiện bản chương
trình của Việt Minh, đang mang lại tự do, hạnh phúc cho dân tộc. Trong
lúc giữ nền độc lập, chúng tôi quyết vượt mọi khó khăn, nguy hiểm dù phải
hy sinh tính mệnh cũng không từ.”
Lời thề của Quốc dân, cũng do
Hồ Chí Minh đọc: “Chúng tôi, toàn thể dân Việt Nam xin
thề: kiên quyết một lòng ủng hộ Chính phủ Lâm thời Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, ủng hộ chủ
tịch Hồ Chí Minh. Xin thề! Chúng tôi xin thề cùng chính phủ giữ
quyền độc lập hoàn toàn cho Tổ quốc, chống mọi mưu mô xâm lược, dù có phải
chết cũng cam lòng. Xin thề! Nếu Pháp đến xâm lăng lần nữa thì chúng
tôi xin thề: không đi lính cho Pháp, không làm việc cho Pháp, không bán
lương thực cho Pháp, không đưa đường cho Pháp.” (Tô Tử Hạ và nhiều tác giả, 60 năm chính phủ Việt Nam [sách song
ngữ Việt-Anh], Hà Nội: Nxb.Thông Tấn, 2005, tr. 26.)
Tuy thề thốt quyết tử, “chúng
tôi quyết vượt mọi khó khăn, nguy hiểm dù phải hy sinh tính mệnh cũng không
từ”, và cương quyết thực hiện bốn không: “không đi lính cho Pháp, không
làm việc cho Pháp, không bán lương thực cho Pháp, không đưa đường cho Pháp”,
nhưng khi Pháp đem quân từ Nam ra Bắc đe dọa, HCM sợ Pháp tấn công và lật
đổ thì HCM, VM và đảng CS chẳng những mất độc quyền chính trị, mà có thể còn
bị tiêu diệt, nên HCM vội vàng nuốt lời thề.
Nguyên theo tối hậu thư
Potsdam, sau khi Nhật đầu hàng, quân Trung Hoa Quốc Dân Đảng vào Đông Dương
giải giới quân đội Nhật ở bắc vĩ tuyến 16, còn quân Anh giải giới quân đội
Nhật ở nam vĩ tuyến 16. Pháp lợi
dụng thời cơ tái chiếm Đông Dương.
Đầu tháng 10-1945, chính phủ
Pháp bổ nhiệm Jean Saiteny làm Đại diện chính phủ Pháp tại Bắc Kỳ. Sainteny gặp HCM lần đầu ngày 15-10-1945
và lần thứ hai ngày 1-12-1945. Sau
hai cuộc gặp mặt, người Pháp bí mật giao cho HCM ngày 7-12-1945, một bản dự
thảo hiệp ước giữa hai bên để VM nghiên cứu.
Trong khi đó, đô đốc
D'Argenlieu, cao uỷ Pháp tại Đông Dương, đến Sài Gòn ngày 30-10-1945. Ngày 27-2-1946, đô đốc D'Argenlieu phát
động cuộc hành quân Bentré,
chuyển 21,000 quân từ miền Nam ra Hải Phòng, để tái chiếm Bắc Kỳ. Pháp muốn sớm chiếm lại Bắc Kỳ trước khi
nhà cầm quyền VM được củng cố và trước khi mùa mưa đến ở đất Bắc từ tháng 5
hằng năm. (Stein Tonnesson, “La paix imposée par la Chine: l'accord
Franco-vietnamien du 6 mars 1946”, Les
Cahiers de l'Institut D'Histoire Du Temps Présent, Paris:
Charles-Robert Ageron và Philippe Devillers chủ biên, số 34, tháng 6-1996,
tt. 36-38.)
Tại Hà Nội, được tin hạm đội
Pháp xuất hiện ở ngoài khơi Hải Phòng vào chiều ngày 5-3-1946 và chuẩn bị
đổ bộ vào sáng ngày hôm sau (6-3-1946), HCM vội báo cho Jean Sainteny biết
là ông ta đồng ý ký hiệp ước với Pháp, mà Pháp đã bí mật giao bản dự thảo
ngày 7-12-1945 (đã viết ở trên).
Vào chiều ngày 6-3-1946, tại
số 38 đường Lý Thái Tổ, Hà Nội, với tư cách chủ tịch chính phủ Liên hiệp
kháng chiến, HCM ký thỏa ước Sơ bộ
với Pháp. Cùng ký văn kiện nầy,
ngoài HCM, còn có Vũ Hồng Khanh (lãnh tụ VNQDĐ), phó chủ tịch Quân sự uỷ
viên hội của chính phủ. Đại diện
chính phủ Pháp là Jean Sainteny.
Thỏa ước nầy gồm 2 điều
chính: 1) Pháp thừa nhận Việt Nam là một quốc gia tự do (état libre), có
chính phủ riêng, nghị viện riêng và tài chính riêng trong Liên Bang Đông
Dương và trong Liên Hiệp Pháp. 2)
Việt Nam sẵn sàng tiếp đón quân đội Pháp đến thay thế quân đội Trung
Hoa để giải giáp quân đội Nhật. Tuy HCM
ký thỏa ước Sơ bộ ngày 6-3-1946
với Jean Sainteny ở Hà Nội, nhưng Jean Cédile, đại diện Pháp tại nam Đông
Dương, tuyên bố rằng thỏa ước nầy chỉ có giá trị ở miền bắc, và không có
giá trị ở miền nam vĩ tuyến 16. (Chính Đạo, Việt Nam niên biểu 1939-1975, tập A: 1939-1946, Houston: Nxb
Văn Hóa, 1996, tr. 319.) Điều đó có
nghĩa là lúc đó, Pháp chưa chịu để miền Nam tái sáp nhập vào Việt Nam.
Ngoài ra, bên cạnh thỏa ước Sơ bộ, cũng trong ngày 6-3-1946, hai
bên ký một phụ ước quân sự, minh định hoạt động quân đội mỗi bên. Theo điều 1 của phụ ước nầy, VM đồng ý để
quân đội Pháp thay quân đội Trung Hoa ở phía bắc vĩ tuyến 16, nghĩa là quân
đội Trung Hoa sẽ rời khỏi Việt Nam, dầu Việt Nam không ký kết thỏa ước với
Trung Hoa. Lực lượng Pháp lên đến
15,000 quân.
KẾT LUẬN
Như thế HCM và VM không chống
Pháp khi Pháp trở lại Việt Nam như lời thề mạnh mẽ ngày 2-9, mà VM lại ký thỏa
ước hợp thức hóa chính thức sự hiện diện của quân đội Pháp tại Việt
Nam. Hơn nữa, sợ thỏa ước Sơ bộ ngày 6-3-1946 chưa đủ hiệu lực,
cần phải được một cấp bậc cao hơn thừa nhận, HCM còn qua tận Paris, xin ký
thêm bản Tạm ước hay Đường lối sống (Modus Vivendi) ngày 14-9-1946 với bộ trưởng Pháp quốc Hải ngoại
là Marius Moutet, gồm 14 điều khoản, theo đó VM để cho Pháp tái tục các
hoạt động kinh tế, tài chính, giao thông, văn hóa trên toàn quốc Việt Nam,
hai bên sẽ nghiên cứu về tương lai ngoại giao Việt Nam và vấn đề Nam Kỳ,. Bản Tạm
ước có hiệu lực kể từ 30-10-1946.
Những hành động nầy phản bội hoàn
toàn lời thề bốn không của HCM, quyết liệt chống Pháp trong buổi lễ trình
diện chính phủ vào ngày 2-9-1945. Từ
không nay thành có; chẳng những bốn có, mà Pháp có tất cả những điều Pháp
muốn khi trở lại Việt Nam. Hồ Chí
Minh đúng là tên ĐẠI BỊP CỦA LỊCH SỬ VIỆT NAM. Bịp ngay cả trong lời thề thiêng liêng
trước Dân tộc và Tổ quốc.
TRẦN GIA PHỤNG
(Toronto, 02-09-2015)
|