LỊCH
SỬ CHIẾC MÁY DỆT CẢI TIẾN QUẢNG NAM
Trần
Gia Phụng
Bài
nầy được viết lại để chào mừng Đại hội Đồng hương Quảng Nam Toronto
và vùng phụ cận sẽ diễn ra vào
lúc 6:30 chiều tối Thứ Bảy 10-11-2012, tại nhà hàng Kingsley, 50
Kennedy S., Brampton.
*
Kỹ
nghệ dệt Việt Nam xuất hiện rất sớm, cung cấp vải cho dân chúng sử
dụng, nhưng phát triển mạnh mẽ từ đầu thế kỷ 20 nhờ sáng kiến của
một nhân vật Quảng Nam, ông Cửu Diễn.
Cửu
là cửu phẩm, phẩm hàm do triều đình Huế ban tặng, Diễn là tên người
con gái đầu, vì ở Quảng Nam có tục lệ kiêng cữ tên tộc, lấy tên
người con đầu, dầu là trai hay gái, để gọi người cha. Ông Cửu Diễn tên thật là Võ
Dẫn, sinh năm 1897 (đinh dậu), tại làng Thi Lai, huyện Duy Xuyên,
tỉnh Quảng Nam, nay đổi là xã Duy Trinh, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng
Nam.
Ông
Võ Dẫn hay ông Diễn xuất thân trong một gia đình Nho học, cha là tú
tài Võ Chánh, làm nghề dạy học (thầy đồ) trong làng; chú là Võ
Lượng, đỗ cử nhân trường thi Thừa Thiên năm 1894 (giáp ngọ), chết
trẻ khi mới ra làm quan.
Ông Võ Dẫn học chữ Nho 3 năm, rồi chuyển qua học chữ Quốc ngữ
. Lúc đó phong trào Duy
tân nổi lên rất mạnh tại Quảng Nam. Ông Võ Dẫn đậu Sơ học yếu
lược, rồi nghỉ học và lập gia đình năm 1915. Vào thời nầy, bậc tiểu học
Việt Nam gồm 6 năm học:
sau 3 năm đầu, thi lấy bằng sơ học yếu lược; học tiếp 3 năm,
thi lấy bằng tiểu học.
Nhờ
có chút ít chữ nghĩa, chữ Nho lẫn chữ Quốc ngữ, ông Võ Dẫn được đề
cử làm lý trưởng làng
Thi Lai năm 1922. Lý
trưởng đứng đầu làng, trông coi việc hành chánh trong làng. Tính tình ông rất thanh
liêm, khẳng khái nên được dân chúng quý trọng, nhưng ngược lại, ông
bị viên chánh tổng tên là Bãi hạch sách. Tổng là đơn vị hành chánh
trên làng dưới huyện.
Ông Võ Dẫn bất bình chống đối và bỏ làm lý trưởng. Chính nhờ nghỉ làm hương
chức, ông Võ Dẫn quay qua nghiên cứu ngành dệt và cuối cùng để lại
cho đời sau những sáng chế quý giá.
Nguyên
sau khi nghỉ việc, ông Võ Dẫn vào Sài Gòn thăm người anh ruột. Con ông anh tức cháu ông Võ
Dẫn, đang làm việc ở xưởng dệt của người Pháp. Người nầy đưa ông Dẫn vào
xem xưởng máy. Người
cháu chỉ là một công nhân tầm thường, không chức phận, nên ông Dẫn
chỉ được lấp ló ngoài cửa nhìn vào các khung dệt Tây (Pháp), chứ
không được vào quan sát trực tiếp tận mắt tại
chỗ.
Nhận
thấy các máy dệt Tây vừa tiện lợi, vừa đạt năng suất cao, vừa ít tốn
sức lao động, trong khi lúc đó, máy dệt người Việt còn theo lối cổ
truyền. Khung dệt cũ
rộng tối đa là 4 tấc.
Một người ngồi dệt vất vả, hai tay điều khiển con thoi, chân
đạp nặng nhọc, năng suất hằng ngày khoảng từ 6 đến 7 thước
hàng. Khi về lại Quảng
Nam, ông Võ Dẫn kiếm cách đóng máy dệt kiểu mới của Pháp theo khuôn
khổ cũ, nhưng không thành công. Ông Võ Dẫn lại phải khăn gói
vào Sài Gòn hai lần nữa để quan sát cho thật kỹ. Sau đó ông về Quảng Nam đóng
đi đóng lại nhiều lần nhưng cũng đều bị thất
bại.
Ông
Võ Dẫn còn ra Huế thăm các xưởng dệt người Tàu ở vùng Gia Hội, nhìn
trộm kiểu máy dệt của họ để bổ túc vào những hiểu biết của ông khi
quan sát các xuởng dệt Pháp ở Sài Gòn. Mỗi lần thử nghiệm là mỗi
lần tốn kém đến nỗi ông phải bán hết tài sản trong nhà để mua vật
liệu làm thử. Cả mẹ ông
và vợ ông đều chán nản, khóc lóc yêu cầu ông chấm dứt việc thử
nghiệm sản xuất nầy, nhưng ông Võ Dẫn vẫn nhất quyết tiếp tục tiến
hành công việc của mình.
Có lần hết tiền mua gỗ để làm khung, ông Võ Dẫn đã xẻ luôn bộ
phản ngựa trong nhà để sử dụng. Bộ phản ngựa là tài sản quý
giá trong nhà, gồm nhiều tấm ván dày, gỗ tốt, ghép lại với nhau,
dùng thay giường nằm.
May
thay, đến năm 1934, việc thử nghiệm thành công. Chính khung dệt cải tiến
kiểu mới nầy là cơ sở cho các khung dệt nội địa Việt Nam ngày
nay. Máy dệt đạp bằng
chân, về sau người ta thay bằng dây couroir, chạy điện. Lúc đó, mỗi ngày mỗi người
dệt được 20 thước, tăng gấp 3 lần năng suất cũ mà ít tốn sức lao
động hơn. Người ta đổ
xô tới quan sát và tìm hiểu máy dệt mới. Có người khuyên ông Võ Dẫn
nên đem mẫu mã máy dệt mới nầy cầu chứng tại Tòa công sứ Pháp ở Hội
An, nhưng ông nói rằng mình sáng chế chung cho ngành dệt, ai bắt
chước được thì cứ làm mà sử dụng.
Năm
1935, ở Hội An có cuộc Hội chợ đấu xảo toàn tỉnh Quảng Nam (ngày nay
gọi là Hội chợ triển lãm).
Ông Võ Dẫn đưa máy dệt cải tiến của mình đến đó trình
bày. Máy dệt mới nầy
rất được dân chúng hoan ngênh.
Ông được chính quyền tặng hàm cửu phẩm năm 1936, nên từ đó có
tên là ông Cửu Dẫn, nhưng để tránh tên tộc, người gọi là ông Cửu
Diễn. Sau hội chợ Hội
An, máy dệt nầy được đưa đi triển lãm khắp nơi trong
nước.
Trong
khi đó, ông Cửu Diễn không ngừng nghĩ cách canh tân máy dệt. Từ khung 3 tấc rưởi
(0,35m.), ông đã tăng lên khung 7 tấc rưỡi (0,75 m.) năm 1935. Ông cũng làm cho máy tăng
năng suất lần lần lên 20 thước trong 8 giờ. Chất lượng vải càng ngày
càng được cải thiện.
Năm 1936, ông Cửu Diễn lại thành công trong việc sản xuất vải
bông.
Từ
đó, ông Cửu Diễn sản xuất khung dệt để bán rộng rãi khắp nước, đưa
ngược máy dệt vào Sài Gòn tiêu thụ. Ông Hoàng Trọng Phu, lúc đó
đang làm tổng đốc ngoài Bắc Kỳ, con của Hoàng Cao Khải, đã đưa người
từ Hà Đông, một vùng vốn nổi tiếng về tơ lụa, vào học nghề ông Cửu
Diễn, ăn ở trong nhà nhiều khi lên 7 hay 8
người.
Năm
1938, ông Cửu Diễn đưa khung dệt qua tham dự Hội chợ đấu xảo Nam
Vang, thủ đô Cao Miên (Cambodia), được triều đình Huế phong hàm bát
phẩm kiêm Hàn lâm viện Kiểm bộ, có bài ngà đeo trước ngực, nên từ
đây dân chúng gọi ông là ông Nghè Diễn.
Công
việc làm ăn càng ngày phát đạt, Ông Nghè Diễn sắm một chiếc
xe hơi hiệu Renault Primaquatre, tự tay ông lái để chuyên chở hàng
hóa. Thời đó, khoảng
năm 1940, ở một vùng nông thôn hẻo lánh tại Quảng Nam, miền Trung
Việt Nam, mà một tư nhân nhà quê sắm được một chiếc xe hơi du lịch
để đi lại, là một hiện tượng hiếm có rất được truyền
tụng.
Năm
1946, cuộc chiến tranh chống Pháp bùng nổ, ông Nghè Diễn cùng gia
đình chạy tản cư vào Quảng Ngãi. Tại đây, ông được chỉ định
làm Quản đốc xưởng dệt Việt Thắng ở xã Hành Thịnh, huyện Nghĩa
Hành. Bên cạnh ngành
dệt, ông có nhiều sáng kiến mới, như ông cải tiến máy tưới do trâu
kéo thay vì dùng người đứng tác nước, năng suất tăng gấp 5
lần.
Cũng
tại Quảng Ngãi, về ngành dệt, ông Nghè Diễn đưa ra hai sáng kiến
quan trọng: Thứ nhứt là
ông sáng chế khung nhỏ chạy bằng 3 thoi, dệt ruban khổ 1,5 cm, cung
cấp cho các máy đánh chữ vì lúc đó không có ruban của Pháp. Thứ hai là ông sản xuất nịt
vải để thay thế nịt da.
Nguyên lúc đó, vì nhu cầu tăng gia sản xuất nông nghiệp, nhà
cầm quyền Việt Minh ra lệnh ngưng giết trâu bò nên không có da để
làm nịt. Ông Nghè Diễn
nghĩ ra cách dệt nịt vải, có dây luồn vào cho chắc chắn, nhưng giá
thành hơi cao. Về sau,
Việt Minh bãi bỏ lệnh giết trâu bò, nên người ta lại quay qua dùng
da sản xuất nịt.
Năm
1954, sau hiệp định Genève, ông Nghe Diễn hồi cư về quê ở Quảng Nam
và gây dựng cơ đồ sản xuất trở lại. Ông bắt đầu nghĩ đến việc
nghiên cứu máy ươm tơ, một ngành vệ tinh của ngành
dệt.
Cách
thức thao tác máy ươm tơ cổ truyền gồm 3 người: một người ngồi quay
gương tơ, một người kéo thao càng, một người tranh tơ, chỉ tranh
được 2 mối tơ và mỗi ngày đạt năng suất tối đa là 4 lạng tơ. Năm 1960, ông Nghè Diễn chế
thành công máy ươm tơ kiểu mới gồm một nồi chaudière lớn, chuyền
nước vào các nồi ươm, chạy được 100 mối; mỗi ngày ra được 30 ký lô
tơ.
Năm
1962, ông Nghè Diễn thiết kế một nhà máy ươm tơ lớn tại thôn Hai, xã
Xuyên Trường, quận Duy Xuyên, tức thôn Hai xã Duy Trinh, huyện Duy
Xuyên ngày nay. Phần
dàn sắt của nhà máy nầy do nhà thầu Trịnh Văn Để ở Đà Nẵng phụ trách
thi công.
Lúc
đó, Trung Tâm Khuếch Trương Tiểu Công Nghệ Đà Nẵng đưa một phái đoàn
kỹ sư Nhật Bản đến tìm hiểu nhà máy ươm tơ Xuyên Trường. Người Nhật rất khâm phục
cách thiết kế nhà máy ươm tơ nầy và đã cắc cớ hỏi ông Nghè Diễn:
"Ngài tốt nghiệp từ trường đại học nào?” Ông Nghè Diễn cười lớn bảo
rằng: "Chỉ tốt nghiệp sơ học yếu lược, còn dưới bằng tiểu học
nữa.” Tuy nhiên phái
đoàn Nhật không chịu tin và cứ tưởng ông nói
đùa.
So
với tầm cỡ ngành dệt ở QuảngNam lúc bấy giớ, nhà máy ươm tơ xã Xuyên
Trường là một cơ sở đồ sộ, nhưng rất tiếc, vì thiếu kinh nghiệm, ông
Nghè Diễn không nghiên cứu kỹ địa hình nơi thiết lập nhà máy ươm
tơ. Đây là một vùng đất
thấp nên trận lút kinh hoàng năm 1964 đã tràn ngập và phá hủy toàn
bộ nhà máy ươm tơ.
Sau
thất bại nầy, ông Nghè Diễn vào Sài Gòn. Tại đây ông làm cố vấn kỹ
thuật cho Liên Hiệp Hợp Tác Xã Dệt Sài Gòn. Lúc ấy đã thất tuần, bước
vào tuổi cổ lai hy, ông Nghè Diễn về sống với người con trai tại số
15 đường Thái Phiên Đà Nẵng.
Chính trong thời gian nầy, người viết thường hay đến thăm hỏi
ông Nghè Diễn, có khi đi một mình, có khi đi với nhà văn Nguyễn Văn
Xuân. Chúng tôi được
ông kể lại một cách sôi nổi cuộc đời hoạt động đầy kịch tính của
ông. Rất tiếc những ghi
chép lúc đó bị tịch thu chung với tủ sách gia đình của người viết
sau biến cố 1975.
Sau
biến cố năm 1975, ông Nghè Diễn vào Sài Gòn thăm người con gái đầu
sinh sống tại Ngã Tư Bảy Hiền, quận Tân Bình. Ông từ trần tại đây ngày
27-10-1975 (23-9 năm ất mão), và được an táng tại nghĩa trang Trung
Việt Ái Hữu (nghĩa trang Gò Dưa), huyện Thủ Đức, cách Sài Gòn khoảng
15 cây số. Dân chúng
sống về nghề dệt ở khu vực dệt Ngã Tư Bảy Hiền, Tân Bình, gồm đa số
là người Quảng Nam, xin lập tượng ông tại nơi ông thường cư ngụ lúc
sinh tiền để kỷ niệm, nhưng nhà cầm quyền cộng sản không cho
phép.
Phần
chính của bài viết nầy vừa dựa vào trí nhớ những điều người viết đã
từng hầu chuyện với ông Võ Dẫn tức ông Cửu Diễn tại Đà Nẵng trước
năm 1975, vừa dựa theo lời kể của người con thứ ba của ông Nghè Diễn
là ông Võ Văn Quán, mà người viết đã nhiều lần gặp gỡ và hỏi chuyện
tại Sài Gòn trước khi cả hai chúng tôi đều ra nước ngoài sinh
sống.
TRẦN
GIA PHỤNG
(Toronto,
27-10-2012)
|