LÁ
CỜ CHÍNH NGHĨA
(Bài 1)
Trần Gia Phụng
Lời
người viết: Sau khi bài
“Mặt trời không bao giờ lặn bên trên lá Cờ vàng
ba sọc đỏ” được đăng trên báo và
đưa lên web, có một độc giả tự xưng
là du học sinh Việt Nam gởi e-mail cho người
viết và đưa ra hai câu hỏi: 1) Tại sao người viết nói rằng lá
Cờ vàng ba sọc đỏ xuất hiện năm 1948
chứ không phải 1954 khi đất nước bị
chia hai? 2) Nếu người viết bảo rằng lá
Cờ vàng ba sọc đỏ là lá cờ chính nghĩa thì
người viết giải thích như thế nào về biến
cố 1975? Xin cảm ơn
anh du học sinh đã đặt câu hỏi. Sau đây là bài trả lời câu
hỏi thứ nhất. Tôi
sẽ trả lời câu hỏi thứ hai trong số báo
sau.
1.- HOÀN CẢNH LỊCH SỬ
Năm 1945, sau thế chiến thứ
hai, Hồ Chí Minh và mặt trận Việt Minh (VM), một
tổ chức ngoại vi của đảng Cộng
Sản Đông Dương (CSĐD), nhanh tay chiếm
được chính quyền.
Vua Bảo Đại (trị vì 1925-1945) quyết
định thoái vị và trao quyền lại cho mặt
trận VM. Ngày 2-9-1945, Hồ
Chí Minh tuyên bố thành lập chế độ Việt Nam
Dân Chủ Cộng Hòa và ra mắt chính phủ lâm thời,
chọn cờ của mặt
trận VM là Cờ đỏ sao vàng làm quốc kỳ.
Không đầy mười ngày sau, trung
ương đảng CSĐD họp tại Hà Nội ngày
11-9-1945 đưa ra chủ trương VM độc
quyền cai trị đất nước. (Philippe Devillers, Histoire du Viet-Nam de 1940 à 1952,
Paris: Éditions du Seuil, 1952, tr. 143.) [Về sau, đảng
Cộng Sản Việt Nam tiếp tục việc nầy
qua điều 4 hiến pháp năm 1992.]
Để bảo đảm độc
tôn quyền lực, về đối nội, VM thực
hiện kế hoạch mà VM gọi là “giết tiềm
lực” hay “tiêu diệt tiềm lực”, tức là tiêu
diệt tất cả các đảng phái và tất cả
các thành phần theo chủ nghĩa dân tộc, tất
cả những người có khả năng nhưng không
cộng tác với VM, có thể nguy hiểm cho VM hay trở
thành đối thủ của VM trong tương lai.
Về đối ngoại, VM
nhượng bộ các lực lượng nước ngoài
để rảnh tay đối phó với các lực
lượng đối kháng trong nước, nhằm duy trì
việc độc quyền chính trị. Khi Pháp gởi lực lượng,
theo quân Anh tái chiếm miền Nam, rồi tiến ra Bắc
nhằm thay thế quân Trung Hoa Quốc Dân Đảng, VM
liên tục nhượng bộ.
Thấy VM yếu kém, ngày 18-12-1946, Pháp buộc VM
phải giao quyền kiểm soát an ninh Hà Nội cho Pháp. Hồ Chí Minh họp trung
ương đảng CSĐD tại Vạn Phúc (Hà Nội)
trong hai ngày 18 và 19-12-1946, quyết định bất
ngờ tấn công Pháp tối 19-12-1946. (Một nhóm tác
giả, Từ điển bách
khoa quân sự Việt Nam, Hà Nội: Nxb. Quân Đội
Nhân Dân, 2004, tt. 503-504.) Không
thể để Pháp bắt và cũng không thể bỏ
trốn nhục nhã, quyết định của hội
nghị Vạn Phúc nhằm tạo cơ hội cho các nhà
lãnh đạo VM và đảng CSĐD thoát thân ra khỏi Hà
Nội một cách chính thức.
Thế là chiến tranh không tuyên chiến xảy ra.
Trong khi chiến tranh tiếp diễn, VM
tiếp tục chủ trương “giết tiềm
lực”. Trong các năm 1945,
1946, 1947 trên toàn quốc, VM giết khoảng 100,000
người ở tất cả các cấp từ trung
ương xuống tới địa phương làng
xã. Đứng đầu danh
sách nầy là những nhân vật như Phạm Quỳnh,
Ngô Đình Khôi, Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm, Huỳnh Phú
Sổ, Trương Tử Anh …
Vì bản năng sinh tồn, những
người theo chủ nghĩa dân tộc không cộng
sản phải trốn tránh, bỏ ra nước ngoài,
hoặc phải đến sinh sống tại vùng do Pháp tái
chiếm khi Pháp trở lại Đông Dương, hay
chẳng đặng đừng cộng tác với Pháp
để thành lập tổ chức hành chánh địa
phương tạm thời do Pháp bảo trợ, chống
lại VM.
Ở Nam Kỳ, chính phủ Cộng hòa
Lâm thời Nam Kỳ được thành lập tháng 6-1946,
đổi thành chính phủ Nam Kỳ tự trị tháng
2-1947. Cũng trong tháng 2-1947,
Pháp thành lập Hội đồng chấp chánh lâm thời
Trung Kỳ tại Huế. Ra
tới Hà Nội, Pháp thành lập Uỷ ban Lâm thời Hành
chánh và Xã hội, còn được gọi là Hội
đồng An dân tháng 5-1947. Tháng 10-1947, ông Nguyễn Văn
Xuân, thiếu tướng trong quân đội Pháp, đã
từng được Hồ Chí Minh cử làm quốc
vụ khanh trong chính phủ VNDCCH ngày 2-9-1945, đứng ra
thành lập chính phủ lâm thời Nam Kỳ.
Việt Minh kết án chung tất cả
các tổ chức nầy là Việt gian, tay sai thực dân
Pháp. Tuy nhiên nếu những
người nầy không hợp tác với Pháp để
chống VM cộng sản, bảo toàn sinh mạng của
chính họ, thì không lẽ họ ngồi yên để
chờ đợi VM tới bắt giết, như đã
từng bắt giết Phạm Quỳnh, Ngô Đình Khôi?
Nếu Nguyễn Văn Xuân, một tướng lãnh trong
quân đội Pháp, là tay sai của thực dân Pháp, thì
tại sao Hồ Chí Minh lại cử làm quốc vụ
khanh trong chính phủ của Hồ Chí Minh?
2.- CỜ VÀNG BA SỌC ĐỎ XUẤT
HIỆN
Trong khi đó, trong một chuyến công
du cho chính phủ VM qua Trung Hoa tháng 3-1946, theo lời cựu
hoàng Bảo Đại, cố vấn chính phủ VM, ông
bị phái đoàn VM bỏ rơi ở lại Côn Minh
(Kunming) tháng 4-1946. (Bảo Đại, Con rồng Việt Nam, California: Nxb. Xuân Thu, 1990, tr.
242.) Cựu hoàng tự ý
thức rằng VM bỏ rơi ông có nghĩa là VM không còn
cần đến ông nữa, nên cựu hoàng bắt
đầu tách ra khỏi chính phủ VM, qua trú ngụ ở
Hồng Kông. Các lãnh tụ
trong các tổ chức hay đảng phái theo chủ
nghĩa dân tộc dần dần tập họp chung quanh
cựu hoàng Bảo Đại, yêu cầu cựu hoàng ra
cầm quyền trở lại, nhằm tranh đấu
giành độc lập và thống nhất đất
nước.
Về phía Pháp, sau một thời gian
thương thuyết với VM nhưng thất bại,
Pháp thay đổi chính sách từ tháng 9-1947, quay qua
thương thuyết với cựu hoàng Bảo
Đại để tìm một giải pháp mới. Cao uỷ Pháp tại Đông
Dương là Émile Bollaert gặp cựu hoàng Bảo
Đại trên một chiếc tàu thả neo ở vịnh
Hạ Long ngày 6-12-1947. Hai bên
đồng ký bản thông cáo chung theo đó Pháp hứa trao
trả độc lập cho Việt Nam và ngược
lại Việt Nam hứa sẽ cộng tác và ưu tiên
sử dụng chuyên viên Pháp trong công cuộc kiến
thiết đất nước.
Sau cuộc nói chuyện sơ khởi
trên đây, Bảo Đại qua Pháp tiếp tục vận
động. Để
tạo cơ chế hành chánh chung có thể nói chuyện
với Pháp, khi trở về lại Hồng Kông, cựu
hoàng uỷ cho Nguyễn Văn Xuân lập chính phủ Trung
ương Lâm thời Việt Nam.
Nguyễn Văn Xuân được Hội nghị các
giới cầm quyền do Pháp bảo trợ và đại
diện các đoàn thể, các đảng phái tại ba
miền Bắc Trung, Nam Việt Nam, họp tại Sài Gòn
ngày 20-5-1948, đồng ý ủng hộ làm thủ
tướng.
Ngày 1-6-1948 Nguyễn Văn Xuân chính
thức công bố chính phủ Trung ương Lâm thời
Việt Nam gồm đầy đủ đại diện
Bắc, Trung và Nam Việt Nam.
Hôm sau, 2-6-1948, thủ tướng Nguyễn Văn Xuân
công bố “Pháp quy lâm thời” (Statut provisoire), quốc
kỳ nền vàng ba sọc đỏ ở giữa,
quốc ca là bài “Tiếng gọi sinh viên”, sau đổi là
“Tiếng gọi thanh niên” của Lưu Hữu
Phước.
Khi chuẩn bị lập chính phủ,
Nguyễn Văn Xuân đã cho trưng cầu ý kiến
về việc chọn quốc kỳ. Lúc đó có năm lá
cờ được đề nghị để chọn
làm quốc kỳ, gồm có ba lá cờ do uỷ ban
đại diện ba miền Bắc, Trung và Nam phần
đưa ra, và hai lá cờ do đại diện Phật
Giáo Hòa Hảo và đạo Cao Đài đề
nghị. Cuối cùng lá cờ
do đại diện miền Nam đề nghị
được chấp thuận vì có ý nghĩa nhất,
lại không phức tạp, dễ thực hiện.
Quốc kỳ mới do thủ
tướng Nguyễn Văn Xuân công bố hình chữ
nhật, chiều cao bằng hai phần ba chiều ngang,
nền vàng giống như cờ của Trần Trọng
Kim, nhưng thay vì quẻ ly, nay đổi lại ba sọc
đỏ bằng nhau, chạy dài theo chiều ngang của
lá cờ. Chiều cao chia thành
3 phần bằng nhau. Ở
phần giữa, ba sọc đỏ nằm xen kẻ
với hai sọc vàng, tất cả năm sọc
đều bằng nhau.
Ngày 8-3-1949 cựu hoàng Bảo Đại ký
với tổng thống Pháp là Vincent Auriol hiệp
định Élysée, tại
Paris, theo đó chính phủ Pháp chính thức giải kết
hòa ước bảo hộ năm 1884, Việt Nam
độc lập trong Liên Hiệp Pháp. Sau những thủ tục pháp lý đưa Nam
Kỳ, vốn là thuộc địa của Pháp, sáp
nhập trở lại vào lãnh thổ Việt Nam, nghĩa là
đất nước được thống nhất,
Bảo Đại trở về Việt Nam lập chính
thể Quốc Gia Việt Nam do ông làm quốc trưởng
cuối tháng 4-1949.
Lúc đó, trên đất nước Việt
Nam có hai chính phủ. Chính
phủ QGVN ở các thành phố và vùng nông thôn phụ
cận. Chính phủ VNDCCH
ở núi cao, rừng sâu và bưng biền. Khu vực cai trị của hai
bên không có giới tuyến rõ rệt. Hai chính phủ theo hai đường lối hoàn
toàn đối kháng nhau. Chính
phủ QGVN chủ trương tự do dân chủ, đa
đảng tuy có phần hạn chế vì chiến tranh, và
dựa trên nền tảng văn hóa dân tộc. Chính phủ VNDCCH chủ
trương độc tài toàn trị, độc
đảng và dựa trên nền văn hóa Mác-xít. Hai chính phủ được
tượng trưng bằng hai lá cờ cũng đối
nghịch nhau: Cờ vàng ba sọc đỏ và Cờ
đỏ sao vàng.
Về
phía QGVN, do đặc trính tự do dân chủ, nhiều chính
phủ kế tiếp nhau cầm quyền. Cuối cùng, năm 1954 quốc
trưởng Bảo Đại cử Ngô Đình Diệm
lập chính phủ. Ngô
Đình Diệm chính thức chấp chánh từ ngày 7-7-1954
(ngày Song thất). Hai tuần
sau, hiệp định Genève
được ký kết ngày 20-7-1954, chia hai nước
Việt Nam ở sông Bến Hải (vĩ tuyến 17),
VNDCCH ở phía bắc và QGVN ở phía nam.
Ông
Diệm ổn định tình hình miền Nam, tổ
chức trưng cầu dân ý ngày 23-10-1955, thiết lập
chế độ Việt Nam Cộng Hòa do ông làm tổng
thống ngày 26-10-1955. Quốc
hội lập hiến được bầu ngày 4-3-1956,
bàn chuyện thay đổi quốc kỳ và quốc ca,
nhưng chưa có mẫu vẽ quốc kỳ mới nào
ưng ý hơn, nên ngày 31-7-1956, Quốc hội ra quyết
nghị hoãn bàn, và vẫn giữ quốc kỳ như
cũ. Sau đó Quốc
hội mở cuộc thi vẽ quốc kỳ mới; có
tất cả 350 mẫu cờ và 50 bài nhạc
được đề nghị.
Ngày 17-10-1956, Quốc hội lập hiến một
lần nữa ra tuyên bố không chọn được
mẫu quốc kỳ và bài hát
nào hay đẹp và ý nghĩa hơn, nên quyết
định giữ nguyên màu cờ và quốc ca cũ làm
biểu tượng quốc gia.
Lá
Cờ vàng ba sọc đỏ được miền Nam
sử dụng cho đến năm 1975, khi cộng sản
Bắc Việt, với sự hậu thuẫn của
Quốc tế cộng sản, cưỡng chiếm
miền Nam Việt Nam ngày 30-4.
Như thế, lá Cờ vàng ba sọc
đỏ đã xuất hiện từ năm 1948 trên toàn
quốc, chứ không phải chỉ xuất hiện sau
năm 1954, ở miền Nam Việt Nam sau khi đất
nước bị chia hai. Lá
Cờ vàng ba sọc đỏ hoàn toàn đối nghịch
với lá Cờ đỏ sao vàng chẳng những về
màu sắc, nhưng quan trọng nhất đối
nghịch cả về ý nghĩa chính trị. Một bên, Cờ vàng ba sọc đỏ
tượng trưng cho tự do dân chủ và dân tộc;
một bên, Cờ đỏ sao vàng tượng trưng cho
độc tài, đảng trị và quốc tế cộng
sản. (Sẽ bàn sau).
TRẦN GIA PHỤNG
(Toronto, 04-04-2009)
KÍNH MỜI
ĐỒNG HƯƠNG TORONTO VÀ VÙNG PHỤ CẬN THAM
DỰ LỄ THƯỢNG KỲ QUỐC GIA VIỆT NAM VÀ
NGÀY QUỐC HẬN TẠI CITY HALL LÚC 10 GIỜ NGÀY CHỦ
NHẬT 03-05-2009.