KẺ TRÊN TRĂM
TÊN
Trần
Gia Phụng
Người xưa thường có tên húy
do cha mẹ đặt, tên tục, tên thường dùng, tên thụy (sau khi chết). Nhiều người có thêm tên tự (tên chữ), tên
hiệu, biệt hiệu. Ngày nay, các văn
nghệ sĩ có bút danh, nghệ danh, biệt hiệu, nhà buôn có thương hiệu, tu sĩ
có pháp danh (Phật giáo), tên thánh (Ky-Tô giáo), hướng đạo sinh có tên
rừng ...
Trong ngành tình báo, kể cả
trong tiểu thuyết gián điệp, các điệp viên thường có nhiều tên hoặc bí
danh, bí số khi hoạt động để tự giấu mình và đánh lừa kẻ khác. Ngoài ra, còn có nhiều người thay tên đổi
họ để lừa bịp, lừa tiền hoặc lừa tình.
KẺ TRÊN TRĂM TÊN
Dầu là ngày xưa hay ngày nay,
dầu thực tế hay tiểu thuyết, dầu là giới tình báo hay những kẻ lừa bịp,
trên cõi đời nầy, có lẽ không ai có nhiều tên bằng Hồ Chí Minh (HCM), chủ
tịch nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa tức Bắc Việt Nam trước năm
1975.
Theo thống kê chính thức của
nhà cầm quyền cộng sản hiện nay ở trong nước, trong sách Những tên gọi, bí danh, bút danh của chủ
tịch Hồ Chí Minh, do Bảo tàng Hồ Chí Minh biên soạn, Nxb. Chính Trị
Quốc Gia ấn hành năm 2001 ở Hà Nội, thì HCM có tất cả 169 bí danh, mà CS
gọi là bút hiệu, bút danh, vừa để hoạt động, vừa để viết báo. Sách nầy còn ghi thêm một số bí danh nghi
ngờ là của HCM mà người CS còn đang tìm hiểu thêm.
Hồ Chí Minh sống khoảng 80
tuổi. Từ khi sinh ra cho đến khi
chết, HCM dùng 169 bí danh, tính trung bình mỗi năm HCM có hai bí
danh. Cũng theo thống kê trên đây,
trong 169 bí danh nầy, từ khi sinh ra cho đến năm 1954 (64 năm), HCM dùng
133 bí danh, nghĩa là trung bình một năm cũng hai bí danh. Từ 1954, làm chủ tịch Bắc Việt Nam cho
đến khi chết năm 1969 (15 năm), HCM có 36 bí danh. Vậy trung bình một năm, HCM dùng hơn hai
bí danh.
Trong bài nầy, chúng ta không
nhắc lại tất cả những tên và bí danh của HCM, chỉ xin nói đến một vài cái
tên và bí danh đặc biệt mà thôi.
NGUYỄN TẤT THÀNH, HY VỌNG THÀNH ĐẠT
Đầu tiên, tên khai sinh của
HCM là Nguyễn Sinh Cung. Giọng địa
phương nguyên quán Nghệ An của Nguyễn Sinh Cung, phát âm chữ Cung là
Côông. Vì vậy có tài liệu ghi tên
cúng cơm của HCM là Nguyễn Sinh Côn. (Ví dụ: Trần Quốc Vượng, Trong cõi, Nxb. Trăm Hoa,
California, 1993, bài "Lời truyền miệng dân gian về nỗi bất hạnh của
một số nhà trí thức Nho gia (kinh nghiệm điền dã)".)
Điều đặc biệt là anh của
Nguyễn Sinh Côn tên là Nguyễn Sinh Khiêm (1888-1950). Giọng địa phương phát âm chữ “Khiêm” là “Khơm”. Như thế, một người tên Khơm, một người
tên Côn. Tên hai anh em ghép lại đọc
chung là “Khơm Côn”. Đọc ngược hai
chữ “Khơm Côn” nầy lại (nói lái) là “Khôn Cơm”. Giọng địa phương (từ Nghệ An vào Thừa
Thiên) “khôn” còn có nghĩa là “không”.
“Khôn cơm” nghĩa là không có cơm mà ăn. Có người lý giải rằng vì tên của hai anh
em nhà nầy “khôn cơm”, nên phụ thân là Nguyễn Sinh Sắc (sau đổi tên là
Nguyễn Sinh Huy) nghèo mãi. Người ta
nói vì vậy mà ông Sắc đổi tên hai con.
Nguyễn Sinh Khiêm thành Nguyễn Tất Đạt. Còn Nguyễn Sinh Cung (hay Nguyễn Sinh
Côn) thành Nguyễn Tất Thành, hy vọng về sau gia đình sẽ thành đạt, giàu có.
NGUYỄN ÁI QUỐC: CHÔM TÊN CỦA
NHIỀU NGƯỜI
Cái tên thứ hai đáng nói của
HCM là Nguyễn Ái Quốc. Nguyễn Tất
Thành làm phụ bếp trên tàu Amiral Latouche-Tréville và theo tàu nầy rời Sài
Gòn, đi Pháp ngày 5-6-1911. Ông đặt
chân đến Marseille, hải cảng miền Nam nước Pháp, ngày 6-7-1911. Nguyễn Tất Thành làm đơn xin tổng thống
Pháp được đặc ân vào học Trường Thuộc Địa Paris để ra làm quan cho Pháp, nhưng
không được chấp thuận, nên Thành đành tiếp tục theo tàu hành nghề. Sau thế chiến thứ nhứt (1914-1918),
Nguyễn Tất Thành trở lại Pháp giữa năm 1919. (Daniel Hémery, Ho Chi Minh, de l 'Indochine au Vietnam,
Paris: Nxb. Gallimard, 1990, tr. 42.)
Tại đây Nguyễn Tất Thành gặp Phan Châu Trinh, đậu phó bảng tại Thừa
Thiên (Huế) năm 1901, cùng khóa với Nguyễn Sinh Huy, phụ thân của Nguyễn
Tất Thành. Nhờ sự giới thiệu của
Phan Châu Trinh, Thành quen với Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền. Qua ba người nầy, Thành bắt đầu tiếp xúc
với giới chính trị Paris, nhất là giới chính trị đối lập với chính phủ
Pháp.
Cả bốn ông (Trinh, Trường,
Truyền, Thành) cùng dùng một bút hiệu chung là Nguyễn Ái Quốc (Daniel
Hémery, sđd. tt. 44-45), đồng ký
bản “Revendications du peuple annamite” [Thỉnh nguyện thư của dân tộc
Việt], bằng Pháp văn, do Phan Văn Trường soạn, gởi cho các cường quốc trên
thế giới, đang họp Hội nghị Versailles tại Paris sau thế chiến thứ nhứt,
bắt đầu từ 18-1-1919. Thỉnh nguyện
thư của các ông xuất hiện lần đầu trên báo L'Humanité [Nhân Đạo] ngày 18-6-1919.
Trong bốn người cùng dùng
chung bút hiệu (Nguyễn Ái Quốc), Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường đang bị
mật thám Pháp theo dõi, không tiện ra mặt; Nguyễn Thế Truyền là sinh viên
du học, đang hưởng học bỗng của Pháp để học ngành hóa học, nên không thể
công khai chống Pháp; chỉ có Nguyễn Tất Thành là người mới đến, chưa bị mật
thám Pháp chú ý. Nguyễn Tất Thành
thường đại diện cả nhóm, dùng tên Nguyễn Ái Quốc để liên lạc với báo giới
và chính giới. Dần dần Nguyễn Tất
Thành dùng luôn bút hiệu Nguyễn Ái Quốc làm tên riêng của mình. Từ nay, Nguyễn Tất Thành được gọi là
Nguyễn Ái Quốc.
HỒ CHÍ MINH: TIẾM DANH HAY
TRỞ LẠI HỌ CŨ
Cái tên thứ ba đáng nói nữa
là Hồ Chí Minh. Cũng như tên Nguyễn
Ái Quốc, tên Hồ Chí Minh không phải do Nguyễn Sinh Cung chọn, mà Cung cũng
tiếm danh của người khác.
Nguyên hai nhà cách mạng Việt
Nam ở Trung Hoa là Hồ Học Lãm và Nguyễn Hải Thần, được sự giúp đỡ của Trung
Hoa Quốc Dân Đảng, thành lập Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội gọi tắt là Việt
Minh tại Nam Kinh vào tháng 1-1936.
Ngoài Hồ Học Lãm và Nguyễn Hải Thần, các hội viên nòng cốt khác là
Nguyễn Thức Canh, Đặng Nguyên Hùng, Hoàng Văn Hoan [bí danh là Lý Quang
Hoa, thuộc chi bộ Vân Quý tức Vân Nam và Quý Châu (Guizhou) của đảng Cộng
Sản Đông Dương (CSĐD).]
Năm 1937, Hồ Học Lãm đến hoạt
động ở tỉnh Hồ Nam, và lấy tên là Hồ Chí Minh. (Chính Đạo, Việt Nam niên biểu nhân vật chí, Houston: Nxb. Văn Hóa, 1997,
tr. 168.) Cũng trong năm nầy, trước
hiểm họa xâm lăng của Nhật Bản, hai phe Quốc-Cộng Trung Hoa liên minh lần
thứ hai ngày 22-9-1937.
Do sự liên minh nầy, chính
quyền Quốc Dân Đảng Trung Hoa cho phép đảng CS hoạt động công khai trở
lại. Vì vậy, vào mùa thu năm 1938, đảng
Cộng Sản Liên Xô, qua danh nghĩa Đệ
tam Quốc tế Cộng sản, gởi Nguyễn Ái Quốc từ Liên Xô qua Trung Hoa
hoạt động trở lại với tên mới là Hồ Quang.
Hồ Quang liền liên lạc và điều động nhóm đảng viên thuộc cơ sở hải
ngoại đảng CSĐD.
Nhờ sự giới thiệu của Hồ Học
Lãm, vào gần cuối năm 1940, một số đảng viên CSĐD, dưới vỏ bọc là thành
viên Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội (Việt Minh), đến Quế Lâm (Guilin /
Kweilin tỉnh Quảng Tây) gặp Lâm Uất, phó chủ nhiệm hành dinh tây nam của
Tưởng Giới Thạch. Lâm Uất đưa nhóm
nầy đến gặp chủ nhiệm của ông ta là Lý Tế Thâm. (Hoàng Văn Hoan, Giọt nước trong biển cả, hồi
ký. Portland, Oregon: Nhóm tìm hiểu
lịch sử, 1991, tr. 134.)
Do tin cậy Hồ Học Lãm, cả Lâm
Uất lẫn Lý Tế Thâm đã giúp đỡ họ, và không biết nhóm nầy là những đảng viên
CSĐD. Từ đó, những đảng viên CSĐD
hoạt động ở Trung Hoa cũng như ở trong nước, đều sử dụng danh xưng Việt
Minh, hay nói cách khác, đảng CSĐD đã chiếm dụng danh xưng tổ chức Việt
Minh của Hồ Học Lãm, làm tên mặt trận chính trị của đảng CSĐD. Trong khi đó, từ cuối năm 1940, Hồ Quang
(Nguyễn Tất Thành) sử dụng thông hành khác mang tên là Hồ Chí Minh. Tên nầy vốn là bí danh của Hồ Học
Lãm. Hồ Chí Minh mới (Hồ Quang,
Nguyễn tất Thành) ngụy trang là ký giả của một tờ báo do Cộng Sản Trung Hoa
điều khiển. (Chính Đạo, Việt Nam niên
biểu nhân vật chí, sđd. tr. 161.)
Với bí danh khác là Già Thu, Hồ
Chí Minh (HCM) trở về Việt Nam ngày 28-1-1941, sống ở Pắc Bó (Cao Bằng),
lập Mặt trận Việt Minh ở trong nước. Tại đây, thay mặt Quốc tế Cộng sản,
Già Thu tổ chức Hội nghị Ban chấp hành Trung ương đảng CSĐD lần thứ 8 từ
ngày 10-5 đến ngày 19-5-1941 tại Pắc Bó.
Sau đó, Già Thu tiếp tục qua Trung Hoa hoạt động khoảng từ tháng
8-1942, lấy luôn bí danh của Hồ Học Lãm là HCM, làm tên mới của mình. Hồ Chí Minh bị bắt tại trấn Thiên Bảo
(Quảng Tây) ngày 29-8-1942 và được tha ngày 10-9-1943. (Chính Đạo, Hồ Chí Minh, con người & huyền
thoại, tập 2, sđd. tt. 278, 283.)
Từ đây, HCM trở thành tên
chính thức của Nguyễn Sinh Cung, kể cả khi lên làm chủ tịch Bắc Việt Nam
năm 1954, cho đến cuối đời. Trần
Quốc Vượng, một sử gia cộng sản ở trong nước, giải thích như sau về hiện
tượng trên: "Nguyễn Ái Quốc sau
cùng đã lấy lại họ Hồ vì cụ biết ông nội đích thực của mình là cụ Hồ Sĩ
Tạo, chứ không phải là cụ Nguyễn Sinh Nhậm." (Trần Quốc Vượng, sđd. tr. 258.)
Trước sau vụ việc theo lời kể
của Trần Quốc Vượng là như sau: Nguyễn Sinh Cung (Nguyễn Tất Thành, Nguyễn
Ái Quốc, Hồ Chí Minh) là con của Nguyễn Sinh Sắc (Nguyễn Sinh Huy). Nguyễn Sinh Sắc là con của Nguyễn Sinh
Nhậm. Trước khi đám cưới, bà vợ của
Nguyễn Sinh Nhậm đã có mang với cử nhân Hồ Sĩ Tạo, cho nên Nguyễn Sinh Nhậm
chỉ là người cha trên giấy tờ của Nguyễn Sinh Sắc mà thôi, còn người cha
thực sự của Nguyễn Sinh Sắc là Hồ Sĩ Tạo, tức Hồ Sĩ Tạo là ông nội thực sự
của Nguyễn Sinh Cung. Vì vậy, Nguyễn
Sinh Cung rất bằng lòng với danh xưng Hồ Chí Minh, là họ của ông nội ruột
của ông. Câu chuyện nầy, ngày nay ở
quê của HCM, tức huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, ai cũng biết và ai cũng đều xác nhận là đúng sự thật.
C.B. LÀ “CỦA BÁC”, CHỨ CỦA AI VÔ ĐÓ
Ngày 20-4-1953, sắc lệnh Cải
cách ruộng đất (CCRĐ) đợt thứ 3 được ban hành. Nơi thực hiện đầu tiên là Thái
Nguyên. Người bị đấu tố đầu tiên là
bà Nguyễn Thị Năm, chủ hiệu buôn Cát Hanh Long nên người ta quen gọi là bà
Cát Hanh Long. Bà Cát Hanh Long bị
đem ra đấu tố ba lần và bị giết ngày 9-7-1953.
Bà Cát Hanh Long (bà Năm) là
một quả phụ, nổi tiếng là nhà kinh doanh tài ba, hào hiệp, giúp đỡ nhiều
người. Từ 1945 đến 1951, bà Cát Hanh
Long đã từng dùng nhà mình làm nơi hội họp, nghỉ ngơi, che giấu, ăn ở, nuôi
dưỡng cán bộ CS, trong đó có những nhân vật cao cấp như Trường Chinh, Lê
Đức Thọ, Hoàng Quốc Việt, Lê Văn Lương, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Chí Thanh,
Lê Thanh Nghị, Lê Giản, Hoàng Tùng... Bà còn đóng góp nhiều tiền bạc cho
VMCS, nên việc đấu tố và xử tử bà
Cát Hanh Long gây nhiều dư luận bất bình.
Vì vậy, trên báo Nhân Dân ngày 21-7-1953, xuất hiện
bài viết nhan đề là “Địa chủ ác ghê” của tác giả C.B. nhằm trấn an dư
luận. Bài báo lên án nặng nề địa chủ
Cát Hanh Long (Nguyễn Thị Năm) cùng hai con là những địa chủ gian ác, bóc
lột, dã man. Bài báo còn tố cáo gia
đình bà Cát Hanh Long vừa trực tiếp, vừa gián tiếp giết chết 260 người.
(Xin xem bài báo nầy ở phía dưới.)
Theo hồi ký của Hoàng Tùng,
từng là bí thư Trung ương đảng CSVN, khi nghe tin cố vấn Trung Quốc yêu cầu
xử tử bà Cát Hanh Long, có người báo tin cho HCM biết. Họp Bộ chính trị đảng CS, HCM nói: “Tôi đồng ý người có tội thì phải xử
thôi, nhưng tôi cho là không phải đạo nếu phát súng đầu tiên lại nổ vào
người đàn bà, mà người ấy lại giúp đỡ cho cách mạng. Người Pháp nói không nên đánh vào đàn bà,
dù chỉ đánh bằng một cành hoa.”
(Internet: Hồi ký Hoàng Tùng,
mục “Những kỷ niệm về Bác Hồ”.)
Hoàng Tùng còn cho biết rằng khi cố vấn Trung Quốc nhiều lần đề
nghị, HCM nói rằng: “Thôi tôi theo đa
số, chứ tôi vẫn cho là không phải.”
Theo một tài liệu mới xuất
bản vào giữa năm 2014, tác giả là một người đã từng là ký giả báo Nhân Dân Hà Nội, có nhiệm vụ viết
bài tường thuật vụ xử án bà Cát Hanh Long, khi xảy ra vụ án thì: 1) Hồ Chí
Minh bịt râu, hóa trang để đến dự đấu tố. 2) Trường Chinh đeo kính đen để
khỏi bị nhận diện khi tham gia cuộc đấu tố. 3) Sau khi bà Năm bị giết, cán bộ mua
một cái hòm thật rẻ tiền để chôn địa chủ “gian ác”. Vì rẻ tiền nên hòm nhỏ quá, bỏ xác người
chết vào không lọt. Cán bộ CS kết án
bà Năm thêm lần nữa, là chết rồi mà còn phản động, không chịu chui vào
hòm. Cán bộ CS liền đứng lên đạp xác
bà Năm xuống; xương gãy kêu răng rắc rất rợn người. (Trần Đĩnh, Đèn cù, Hoa Kỳ: Người Việt Books,
2014, tr. 86.)
Sự hiện diện của HCM và
Trường Chinh trong phiên tòa đấu tố nầy chứng tỏ tầm mức quan trọng của
cuộc đấu tố bà Cát Hanh Long và cũng chứng tỏ cả hai đều quyết tâm giết bà
Cát Hanh Long ngay khi mở đầu cuộc CCRĐ năm 1953.
Lúc đó, chỉ có giới cán bộ
cao cấp và một số người trong báo Nhân
Dân (trong đó có Trần Đĩnh) mới biết được C.B. đích thị là ai? Còn đại đa số dân chúng, trong thời gian
dài, không biết C.B. là ai? Gần đây,
trên Internet, có tài liệu phát hiện C.B. là bút hiệu của HCM dùng trên 147
bài đăng trên nhật báo Nhân Dân
từ tháng 3-1951 đến tháng 3-1957.
Những người làm việc trong báo Nhân
Dân giải thích rằng hai chữ C.B. là “của bác”, chứ còn ai vô đó
nữa. Ngày nay, bộ Hồ Chí Minh toàn tập đã được phổ
biến rộng rãi. Mọi người có thể vào
từ tập 6 (1951-1952), sẽ thấy rất nhiều bài viết HCM ký tên C.B. đăng trên
báo Nhân Dân, và đăng lại trong
sách nầy; ví dụ các trang 186, 187, 188-190, 202-204, 209-212, 215-220... (Hồ Chí Minh toàn tập, tập 6,
1951-1952, in lần thứ hai, Hà Nội: Nxb. Chính Trị Quốc Gia, 2000.) Hồ Chí Minh lên tiếng có thể nhắm cho
đảng viên biết rằng vụ xử tử bà Cát Hanh Long là chủ trương của đảng để
chấm dứt chuyện bàn tán, phê bình.
Như vậy có nghĩa là bên ngoài
thì HCM tỏ ra rất đạo đức, thương tiếc nạn nhân, nhưng bên trong, chính HCM
là người quyết định cái chết của ân nhân Nguyễn Thị Năm. Đúng là “khẩu Phật tâm xà”, một kẻ đạo
đức giả gian ác, nham hiểm như Nguyễn Du đã mô tả: “Bề ngoài thơn thớt nói cười,/ Mà trong nham hiểm giết người không
dao.” (Truyện Kiều câu
1815-1816.)
TRẦN DÂN TIÊN, T. LAN: THỔI ỐNG ĐU ĐỦ
Thổi ống đu đủ là trò chơi của
trẻ con Việt Nam, dùng cọng lá đu đủ làm ống, chấm nước xà phòng rồi thổi
thành bong bóng bay lên trời. Trong
văn học, có hai tác giả chuyên thổi ông đu đủ hết sức tài ba là Trần Dân
Tiên và T. Lan. Trần Dân Tiên là tác
giả sách Những mẩu chuyện về đời hoạt
động của Hồ Chủ Tịch, và T. Lan là tác giả sách Vừa đi đường vừa kể chuyện.
Quyển sách thứ nhứt xuất hiện
lần đầu ở Trung Quốc năm 1948, sau đó ấn hành ở Paris năm 1949. Sau năm 1954, Nx, Văn Nghệ Hà Nội tái bản
năm 1955, rồi Nxb. Sự Thật tái bản nhiều lần, và sau năm 1975, Nxb. Trẻ tái
bản ở Sài Gòn.
Sách Vừa đi đường vưa kể chuyện được đăng lần đầu trên báo Nhân Dân năm 1961 và sau đó Nxb. Sự
Thật tái bản nhiều lần. Những tái
bản sau cùng do Nxb. Trẻ ở Sài Gòn đảm trách.
Lúc đầu, người ta không biết
hai tác giả Trần Dân Tiên và T. Lan là ai?
Người ta cũng không tìm ra hai người nầy ở đâu, vì chẳng ai có đứng
ra nhận mình là Trần Dân Tiên hay T. Lan.
Tuy nhiên dần dần người ta cũng tìm được hai bút danh nầy đều là của
HCM. Trước hết, các phiếu sách trong
thư viện nhà nước đề là: “Trần Dân Tiên, T. Lan: tìm HCM”. Điều nầy cho người đọc tự động hiểu rằng
Trần Dân Tiên và T. Lan chính là HCM.
Tuy nhà cầm quyền CS không chính thức xác nhận điều nầy, nhưng những
nhà nghiên cứu trong nước hầu như đồng thừa nhận Trần Dân Tiên và T. Lan là
HCM. Có tài liệu cho biết bản gốc
sách của T. Lan hiện còn được cất giữ ở Phủ chủ tịch Hà Nội.
Trong sách Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ
Chủ Tịch, Trần Dân Tiên đã viết trong phần đầu sách: "Một người như Hồ Chủ tịch của chúng ta,
với đức khiêm tốn nhường ấy và đương lúc bề bộn bao nhiêu công việc, làm
sao có thể kể lại cho tôi nghe bình sinh của người được?” (Trần Dân
Tiên, Những mẩu chuyện về đời hoạt
động của Hồ Chủ Tịch, Nxb. Sự Thật, Hà Nội 1976, tr. 9.) Một người dùng một cái tên khác viết
sách, tự khen mình là khiêm tốn không muốn nói về mình, rồi sau đó, suốt
trong quyển sách lại kể lể, tự đề cao sự nghiệp của mình, thì không biết
nên xếp kẻ đó vào loại người gì đây?
Trong sách nầy, chẳng những
HCM tự đề cao mình mà còn chê bai những anh hùng dân tộc như Hoàng Hoa
Thám, Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, hoặc đả kích các nhà đấu tranh khác
như Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Tường Tam, Vũ Hồng Khanh, hoặc triệt hạ tổ chức
hay đảng phái khác
Cuối sách nầy, Trần Dân Tiên
viết: "Nhân dân gọi Chủ tịch là
cha già của dân tộc, vì Hồ Chủ tịch là người con trung thành nhất của Tổ
quốc Việt Nam." (Trần Dân Tiên, sđd. tr. 149.) Lời nầy
cho thấy HCM muốn gợi ý để được người Việt Nam gọi ông là cha già của dân
tộc, nhưng không được hưởng ứng, nên ông quay qua dùng chữ
"bác". Ở đây lại thấy HCM
thậm khôn, vì trong cơ cấu gia tộc Việt Nam, bác là anh của cha, bác lớn
hơn cha và đứng trước cha trong sinh hoạt đại gia đình, hoặc lễ nghi tế tự.
Sách Vừa đi đường vưa kể chuyện do HCM tự kể tự viết, nhưng dùng một
cái tên khác là T. Lan, một cán bộ đi theo HCM trên bước đường công
tác. Câu chuyện bắt đầu từ khi HCM
hoạt động ở Pháp từ năm 1919, rồi những năm hoạt động ở Nga, Trung Hoa, cho
đến khi về nước và chiến dịch 1950.
Dĩ nhiên luôn luôn xen kẻ những lời xưng tụng HCM là người yêu nước,
đầy sáng kiến, tài ba, khoan dung...
Hồ Chí Minh sáng tạo ra hai
con rối Trần Dân Tiên và T. Lan trong hai quyển sách do HCM viết ra trên
đây, nhắm thổi ồng đù đủ để ca tụng chính mình, tự quảng cáo mình, huyền
thoại hóa tên mình, mà một người tự trọng bình thường không bao giờ làm
thế. Những người không biết Trần Dân
Tiên và T. Lan là ai, nhất là các trẻ em ngây thơ, được học hai quyển sách
nầy trong nhà trường, nên một thời lầm lẫn tôn sùng thần tượng HCM. Tuy nhiên khi lớn lên, biết được sự thật
là Trần Dân Tiên và T. Lan chỉ là HCM trá hình, thì chẳng những sẽ thất
vọng mà còn khinh bỉ. Thì ra HCM
cũng có ngón nghề thổi ống đu đủ, tự bơm, tự nổ. Khổ một điều, ai phát hiện kẻ đạo diễn
của hai tên thổi ông đù đủ nầy, thì ngậm mà nghe chứ không dám nói ra, vì
nói ra sẽ bị báo cáo và bị CS bắt bỏ tù.
TRÊN TRĂM TÊN ĐỂ LÀM GÌ?
Hồ Chí Minh có 169 tên, không
ai có thể nhớ hết được. Ngay cả HCM
có thể cũng không nhớ hết được. Một
câu hỏi đặt ra là HCM dùng nhiều tên, nhiều bí danh để làm gì?
Thông thường, một người không
dùng tên mình, mà dùng một tên khác trong công việc, vì sợ lộ bí mật, muốn
giấu mặt, giấu lý lịch, nhất là trong những hành vi thiếu trong sáng, phi
pháp, bất chính. Càng nhiều tên càng
muốn giấu mặt thật kỹ. Ngay cả vua
Bảo Đại (trị vì 1926-1945) cho đến tháng 8-1945 không biết HCM là ai? (Bảo
Đại, Con rồng Việt Nam,
California: Nxb. Xuân Thu, 1990, tr. 188.)
Hồ Chí Minh hầu như muốn “chôn”
luôn tên do cha mẹ đặt ra tức tên Nguyễn Sinh Cung, dùng trên một trăm tên
khác nhau tùy vào giai đoạn hoạt động trong cuộc đời của HCM:
Từ nhỏ cho đến khi đến Pháp
năm 1919: 11 tên
Từ 1920 đến khi về nước năm
1941: 73 tên
Từ 1941 đến 1945 (cướp chính
quyền): 13 tên
Từ 1946 đến 1954 (thời chiến
tranh): 36 tên
Từ 1955 đến 1969 (chủ tịch
nước) 36 tên
Cộng:
169 tên
Nhìn vào bảng thống kê trên
đây, từ khi còn nhỏ cho đến năm 1919 (khoảng 30 năm), HCM có 11 tên, tuy là
ít so với tổng số tên trong toàn cuộc đời HCM, nhưng có thể nói là đã nhiều
so với cả đời người bình thường. Lý
do có thể là ngay từ khi vừa mới
lớn, HCM mặc cảm hay xấu hổ về nguồn gốc gia đình mình, vì vậy tránh dùng
tên do gia đình đặt.
Nguyên do là khi mới lớn ở
nguyên quán (Nam Đàn, Nghệ An), chắc chắn HCM nghe được dân làng truyền
miệng về nguồn gốc của cha mình. Đó
là Nguyễn Sinh Nhậm chỉ là cha hờ của Nguyễn Sinh Sắc (Huy), tức ông nội hờ
của HCM, còn Hồ Sĩ Tạo mới là cha thật của Nguyễn Sinh Huy (Sắc) tức ông
nội thật của HCM. Đây là một điều
rất xấu hổ trong xã hội nề nếp Việt Nam ngày xưa, nhất là ở nông thôn, nơi
mà người người biết nhau, nhà nhà biết nhau. Điều nầy có thể ám ảnh Nguyễn Sinh Cung
và tạo ra tâm lý bất thường nơi người thanh niên từ khi mới lớn cho đến cuối
đời, sợ người ta phát hiện cha mình là đứa con hoang.
Hơn nữa, HCM lớn lên trong
thời đại khoa bảng Hán học. Con ông
phó bảng, nghĩa là cũng con nhà có học, mà thanh niên nầy lại không có học
vị, chẳng có bằng cấp gì, vì nếu có học vị, có bằng cấp giấy tờ, thì HCM không
thay đổi tên tuổi vì thay đổi thì văn bằng hết giá trị. Vì những mặc cảm
trên đây, HCM thay đổi tên họ nhiều lần ngay cả trước khi hoạt động chính
trị và gián điệp.
Từ năm 1920 cho đến năm 1954,
tức từ khi tham gia hoạt động chính trị ở Pháp, rồi gia nhập đảng CS Pháp,
qua Nga (Liên Xô), qua Trung Hoa, về Việt Nam, đến khi lên làm chủ tịch Bắc
Việt Nam, HCM có 122 tên.
Cần chú ý là từ năm 1920 trở
đi, xảy ra một khúc quanh quan trọng trong đời HCM. Đó là HCM gia nhập đảng Xã Hội Pháp, rồi
đảng Cộng Sản Pháp. Vì vậy, HCM được
Đệ tam Quốc tế Cộng sản (ĐTQTCS) chọn qua Liên Xô để huấn luyện năm
1923, Tuy nhiên HCM không đủ trình
độ văn hóa, nhất là ngôn ngữ và toán học để học chủ nghĩa Mác-xít, vì HCM
chỉ mới học tới lớp 6 ở trường Quốc Học Huế, lại chưa biết tiếng Nga. Do đó, tại Học Viện Thợ Thuyền Đông
Phương ở Moscow, HCM chỉ học cấp tốc về nghề gián điệp, làm nhân viên tình
báo cho ĐTQTCS để mưu sinh. Nghề nầy
phù hợp với khả năng ứng xử linh động mau lẹ của một người giảo quyệt như HCM, vốn là
một kẻ giang hồ, lăn lóc trên các bến tàu trong các chuyến hải hành quốc
tế.
Vì là một gián điệp chuyên
nghiệp, được đào tạo chính quy tại Học Viện Thợ Thuyền Đông Phương ở
Moscow, HCM có thói quen thay họ đổi tên của một gián điệp, thường dùng tên
giả để hoạt động. Hơn nữa, những
hoạt động của HCM là hoạt động chính trị tả phái khuynh đảo, phá hoại nên phải
luôn luôn thay đổi tên họ để tránh bị theo dõi và bắt giam.
Trong thời gian hoạt động
tranh đấu cướp chính quyền, cần phải ẩn trốn, cần phải tránh né, HCM dùng
nhiều bí danh, có thể cho là bình thường,
Tuy nhiên, điều đặc biệt là trong giai đoạn từ 1955 đến khi chết
(1969), tức thời kỳ làm chủ tịch nước, quyền uy tột đỉnh, không còn phải sợ
ai cả, HCM vẫn sử dụng 36 tên giả trên báo chí, không đề tên thật.
Đường đường là chủ tịch một
nước độc tài toàn trị, chẳng còn sợ ai, tại sao lại phải dùng nhiều tên giả
để viết báo? Như thế phải có âm mưu gì? Nếu những âm mưu nầy không gian trá, không
bất chính, thì tại sao HCM phải giấu tên?
Điều nầy cho thấy HCM là một người bản chất xảo quyệt, mang não
trạng bệnh hoạn của một tên đại bịp, chuyên lừa đảo người khác, ném đá giấu
tay.
Hơn nữa, HCM là con người hết
sức tham vọng, chủ trương thổi tên HCM thành một huyền thoại cao quý, để
cho dân chúng ngưỡng mộ HCM, không muốn ai nghĩ xấu về HCM, nên HCM đặt tên
HCM riêng ra một bên. Trong lúc đó,
khi có nhu cầu tự ca tụng mình, hay tấn công người khác, ném đá giấu tay,
thì HCM dùng đến bí danh, chứ không dùng tên mình, dù đang là chủ tịch nước,
nhằm bảo vệ thanh danh riêng của HCM.
Đây là tâm lý của một người sùng bái cá nhân trong các chế độ độc
tài.
KẾT LUẬN
Tóm lại, HCM có 169 cái tên,
bí danh, bút danh, bút hiệu, vừa trong thời gian hành nghề gián điệp, hoạt
động bí mật, và cả trong thời kỳ cầm quyền, làm chủ tịch nước. Dầu chế độ CSVN có ca tụng gì đi nữa, có
tung hê HCM đến đâu đi nữa, HCM dùng 169 tên để giấu mặt, là bằng chứng rõ
ràng HCM là một kẻ xảo quyệt, gian trá, tráo trở, đạo đức giả, chuyên ném
đá giấu tay, chứ chẳng hay ho gì việc ẩn danh đánh phá kẻ khác.
Hồ Chí Minh không phải chỉ là
“một kịch sĩ có biệt tài đánh lừa kẻ
đối thoại" như Bernard Fall viết trong Les deux Viet-Nam (Nxb. Payot, Paris, 1967, tr. 102), mà HCM còn
là tên lừa đảo muôn mặt, bịp bợm nhất trong lịch sử Việt Nam. (Trích: Một thế kỷ lừa đảo, sẽ xuất bản.)
TRẦN GIA PHỤNG
(Toronto, Canada)
|