Hồi ức về Trần Đình Quân :
HÁT ĐỂ NHỚ ĐỜI, và…
Nghiêm Y
Đà Nẵng năm 1963. Lớp Đệ Tam C chúng tôi
có Minh là một cựu học sinh chủng viện, giỏi nhạc. Minh bàn với các bạn để
làm một chương trình văn nghệ tết. Chúng tôi chọn tập bài hợp xướng Lòng Mẹ
của Hải Linh. Chiều chiều chúng tôi họp mặt tại nhà Hoè cho đỡ phiền nhiễu
hàng xóm. Một hôm thầy Quân đạp xe đến thăm chúng tôi. Ông thầy trẻ đến nơi
cũng vừa lúc chúng tôi nghỉ giảo lao. Đang xúm xít trò chuyện thì một cô
bạn lôi ra bài hát chép tay "Khúc tình ca xứ Huế" của Trần Đại
Mỹ. Đây là một tiết mục đơn ca của chương trình sắp tới. Giọng hát của Tâm
hôm ấy hơi run rẩy nhưng cũng cho bọn chúng tôi nhận ra giai điệu thật lạ
và thật lãng mạn như thể là chính tâm trạng chúng tôi đang dàn trải trong
bài hát. Hôm ấy chúng tôi biết thầy Quân chính là Trần Đại Mỹ, người viết
bài hát mà cô bạn học đem vào phòng tập văn nghệ.
Chiều hôm ấy, hình ảnh thầy Quân mang một chiều kích rất khác với thầy trên
bục giảng buổi sáng cùng ngày. Thật lạ, thường thì thầy Quân rất khép kín
trong suốt các buổi học. Ngoài nội dung bài học mỗi buổi, ông không hé cho
thấy những cảm xúc riêng, những vui buồn riêng của mình về không khí lớp
học, về thái độ học tập của bọn chúng tôi. Thật ra thì chỉ qua một hai
tháng thôi, đã nhiều lần tôi thấy thầy thường tỏ ra rất nghiêm khắc với một
vài đứa trong bọn chúng tôi, thường là Tín hay bị "chiếu tướng"
nhất vì tật hay "lóc chóc" trong lớp, và Trang vì tật hay
"nói ngang" trong giờ học. Ngay trong giờ sinh hoạt với lớp hằng
tuần trong tư cách "giáo sư cố vấn" (tức là giáo viên chủ nhiệm
sau này), thầy vẫn rất mực thước phải chăng, thậm chí có lúc rất lạnh lùng.
Vậy mà buổi chiều hôm ấy, cầm đàn guitar, thầy hát lại cho chúng tôi nghe
bài hát kia, rồi lan man chuyện trò về những kỉ niệm chung quanh bài hát.
Từ đấy, hình ảnh thầy Quân rất gần gũi với tôi. Nói cho đúng thì lớp Tam C
của chúng tôi có nhiều thầy cô giáo để lại nhiều kỉ niệm đậm đà: thầy Tấn
già cả mà rất tận tuỵ, yêu thương chúng tôi như một người cha hiền từ, đến
nỗi những đứa nghịch ngợm nhất như Hoà hay Hồng mà cũng phải vào phép của
thầy; cô Oanh dạy môn Anh văn thật tươi tắn, tận tình với chúng tôi như
người cô, người dì thân thiết. Nhưng tôi bị hấp lực của thầy Quân mạnh hơn
cả.
Từ đó, mỗi khi có dịp sinh hoạt "thư dãn" nhân dịp tất niên,
những giờ cuối năm học… lớp chúng tôi lại được đặc biệt nghe một bài hát
của thầy Quân. Bài "Chim bắc bể bắc" là một trong số những bài
hát tôi được nghe trong lớp học, và đã để lại những ấn tượng khá đậm đà về
một phong cách đặt lời ca: vừa mang sắc vẻ cao dao lại vừa mang chất đường
thi. Nét thi vị của lời ca là một đặc điểm ca khúc TĐQ, dù đó là một tình khúc
hay là một khúc du ca sau này. Lúc ấy, chúng tôi còn đang đắm trong những
mơ mộng của tuổi mới lớn, nên những bài tình ca của thầy Quân như những
bông hoa trong vườn nhà, vừa đủ lãng mạn mà vẫn như thân thiết.
Một hôm thầy bảo tôi chuẩn bị một bài thuyết trình rất lạ: "thơ phổ
nhạc". Tôi rất lúng túng khi bị chỉ định một đề tài rất là không giáo
khoa tí nào. Ngoài việc đi tìm tài liệu về các bài thơ phổ nhạc từ thời
tiền chiến đến đương thời, tôi còn phải tìm hiểu thêm về nghệ thuật sáng tác
ca khúc phổ thông, về nghệ thuật chuyển chất thơ trong lời thơ vào giai
điệu trong một ca khúc. Phải nói đây là một "trò chơi" rất mệt
nhọc đối với một học sinh đệ nhị cấp. Bởi vì còn những bài học khác cũng
đòi hỏi thời giờ hằng ngày nữa. Nhưng cũng phải nói là đề tài thuyết trình
này đã gợi hứng rất nhiều cho tôi trong việc trau luyện bản thân: trước hết
là tôi đi vào lĩnh vực ca khúc cho riêng mình, rồi về sau này là một phong
cách phá khuôn khổ trong sinh sinh hoạt dạy học.
Gần hai tuần loay hoay tìm tài liệu, tôi không tiến thêm là bao. Tôi bèn
thưa thật về những khó khăn trong việc tìm tài liệu thơ phổ nhạc thời tiền
chiến. Thầy bảo tôi chiều hôm đó về nhà riêng của thầy ở đường Tăng Bạt Hổ.
Hôm ấy tôi như lạc vào một mê hồn trận sách vở. Ngoài số những bài thơ phổ
nhạc phong phú quá sức tôi mong đợi, thầy còn cho tôi xem tủ sách đầy ắp
các sách báo mà một học sinh tuổi 17 không thể có được: ngoài sách văn học
cũ và mới còn có có rất nhiều báo mà tôi chỉ được nghe tên chứ chưa được
đọc, là báo Mai, báo Sáng Tạo… Tôi đặc biệt thích thú đọc hai tạp chí này.
Khi thấy tôi cứ dán mắt vào một vài số báo Sáng Tạo, thầy bảo tôi cứ cầm về
mà đọc. Đằ Nẵng năm 1964 không còn thấy tờ Sáng Tạo trong các nhà sách. Chỉ
còn tạp chí Văn Nghệ của Lý Hoàng Phong còn thoi thóp sống. Lúc ấy tôi đã
có đủ bộ Văn Nghệ nhưng vì tôi chỉ thích đọc tiểu luận nên đọc tờ báo này
không đủ thoả chí. Cho nên được thầy cho phép cầm những số báo về nhà đọc
là một hạnh phúc thật bất ngờ. Tôi sướng như điên, bèn ôm trọn bộ Sáng Tạo
về đọc ngấu nghiến.
Có điều thú vị nho nhỏ là thường khi giảng trong lớp hay chuyện trò với học
sinh, tôi chỉ nghe thầy nói giọng Huế. Nhưng khi thầy trò nói chuyện ở nhà
thì tôi lại được nghe giọng bắc "chính hiệu". Tôi tò mò hỏi thì
thầy cho biết là thầy có một nửa giòng máu bắc.
Khi tôi lên lớp Đệ Nhất thì không còn môn Quốc văn nữa. Tôi lại được lao
vào những tìm tòi mới (triết) với thầy cô giáo mới. Rồi tôi vào Sài Gòn.
Hình ảnh thầy Quân chìm khuất trong khu vườn kỉ niệm tuổi học trò. Một hôm,
sau giờ dạy học tại một trường tư, tôi đang chạy vội trên chiếc mobylette
để về trường ĐHSP cho kịp giờ nghe giảng. Tình cờ gặp thầy mặc quần áo
lính, đạp vélo đi ngược chiều. Đó là khoảng năm 1967. Tôi ngỡ ngàng vẫy
thầy lại. Thầy trò không kịp buồn vui, chỉ hẹn gặp nhau tại đại học xá Minh
Mạng.
Một
vài hôm sau đó, thầy Quân ghé lại đại học xá Minh Mạng. Ngồi trên balcon
đại học xá nhìn ra hàng phượng hồng quanh sân, thầy kể chuyện tại sao phải
đột ngột được lệnh "bỏ trường mà đi" để vào trường bộ binh Thủ
Đức. Hôm ấy, câu chuyện giữa hai thầy trò cũ rất khác với những câu chuyện
trước kia. Chúng tôi trao đổi những chuyện thời sự, những trăn trở về các
vấn đề của cuộc sống. Tôi chợt nhận ra khoảng cách giữa tôi năm xưa và tôi
bây giờ. Những ngày ở Đà Nẵng, tôi chỉ là một cậu học trò ngu ngơ, nghiện
sách vở hơn là giao tiếp với những con người thật ở quanh mình. Bây giờ,
tôi ngồi chuyện trò với thầy học cũ như hai người anh em xa nhau lâu ngày.
Hôm ấy, tôi mới thật sự biết nhiều về những tâm tình sâu kín của người thầy
cũ. Không khí chính trị trong suốt thời gian bốn năm sau biến cố 1963 rất
là bất ổn, từ đó dẫn đến những tranh chấp trong từng đơn vị làm việc, dù là
ở ngành giáo dục. Lúc ấy tôi hãy còn nhớ như in cảnh tượng những thầy cô
giáo bị rượt đuổi trong hành lang trường PCT, một vị hiệu trưởng bị hoc trò
khoá trái trong văn phòng… Không hiểu sao chiều hôm ấy, những hình ảnh kỉ
niệm cũ lại trở về. Những kỉ niệm êm ái của tuổi học trò bị dồn vào hậu
trường kí ức. Vào thời gian ấy những bài hát tâm ca và tâm phẫn ca của Phạm
Duy đang rất phổ cập trong giới sinh viên chúng tôi. Tâm trạng hai thầy trò
chiều hôm ấy chừng như cũng nặng trĩu như không khí của một thời bất trắc ở
chung quanh.
Sau buổi hàn huyên ấy, tôi không còn gặp lại thầy trong thời gian ông ở
trường bộ binh. Ít lâu sau đó, tôi được tin thầy về lại Phan Châu Trinh.
Thường thì mỗi năm tôi vẫn về nghỉ tết và nghỉ hè tại Đà Nẵng. Hè 1970 tôi
có gửi tặng thầy một tập ca khúc do tôi in ronéo nhân dịp chia tay bạn bè ở
ĐHSP Saigon. Ít lâu sau đó tôi nhận được thư của thầy, bảo rất thích bài
"Mắt chiều" trong tập bài hát kia. Lần tôi về nghỉ tết năm 1971,
thầy cho tôi xem tập bài hát Bỏ trường mà đi in ronéo. Có nhiều bài mới làm
trong thời gian trước và sau khi ông đi lính. Tôi thấy lại một vài bài hát
cũ từ những năm 1964-5 chúng tôi được nghe trong lớp. Tâm sự của TĐQ được
dàn trải khá rõ qua những bài hát nhiều dằn vặt, thao thức về những chuyện
con người và chuyện nước non lúc ấy. Đã xa rồi chàng trai trẻ Trần Đại Mỹ
và khúc tình ca mượt mà một thời lãng mạn.
Khi tôi ra dạy học tại Vĩnh Long, tôi và thầy lại gặp nhau trong sinh hoạt
phong trào Du Ca. Năm 1972 thầy Quân đang điều khiển đoàn Du Ca Đà Nẵng,
tôi thì hướng dẫn đoàn Du Ca Quê Hương ở Vĩnh Long. Trong thời gian này,
các đoàn Du Ca Đà Nẵng, Đuốc Hồng (Nha Trang), Long Xuyên và Quê Hương
(Vĩnh Long) thường xuyên trao đổi thông tin, sinh hoạt của mình. Qua những
bài viết trên tờ nội san Sinh Hoạt của Vĩnh Long, tôi thường bày tỏ những
suy nghĩ của mình về các vấn đề văn hoá-xã hội và giáo dục mà tôi thường
quan tâm. Thỉnh thoảng nhận được thư ngắn của thầy Quân, tôi biết là ông
cũng thường theo dõi sinh hoạt của tôi, và thỉnh thoảng cũng góp ý về đôi
ba suy nghĩ của tôi trong thời gian này.
Lúc ấy, đoàn Du Ca Đà Nẵng có một loạt những hoạt động đặc sắc mà tôi được
biết qua những hồi quang ít ỏi từ hai tuyển tập ca khúc Năm Xưa do đoàn ấn
hành. Lúc này tên ông thường xuất hiện trên các tuyển tập nhạc in ở Saigon.
Thế nhưng bài hát TĐQ phổ thông nhất trong sinh hoạt phong trào du ca lại
là bài "Hát để nhớ đời" và bài "Những chiếc khăn".
Những ca khúc "thời thế" của TĐQ là những bài có chiều sâu tâm
tình, thể hiện qua những giai điệu phong phú và độc đáo. Lúc còn ở trường
PCT, tôi đã được nghe một bài hát ông lấy ý từ ca dao êm đềm để làm bật lên
nét tương phản với tuổi thơ Việt Nam thời chúng tôi lớn lên; giai điệu bài
hát "Lời của tuổi 15" không phải để cho một em bé 15 hát, mà
chính là những trăn trở và dằn vặt của một người thanh niên đối với thân
phận tuổi thơ chúng ta ở vào một thời nhiều oan khổ. Ngoài những bài tình
ca hiếm hoi (mà chỉ cần một "Khúc tình ca xứ Huế" thôi cũng đủ
làm nao lòng bao nhiêu người suốt mấy chục năm qua), TĐQ chỉ hát nhiều về
những thao thức của mình về hai đề tài lớn: chuyên nước non mình vào một
thời nhiễu nhương, và thân phận những con người chới với đi tìm một mùa
xuân chưa hề tới. Ông hát về một thành phố tương lai, vào một thời không
còn bom đạn, không còn cảnh tượng trường lớp bỏ không, mà là một thành phố
có "lớp học từ nay không vắng một ai". Ông hát về những đồng cỏ
xanh vắng bóng trẻ thơ thả diều mà nghĩ tưởng đến ngày rộn rã tiếng cười.
Ông hát cả về những mảnh tâm tình thật riêng tư mà như phản chiếu cả số
phận của nhiều người: từ "Bỏ trường mà đi" đến "Xin cảm
ơn" là hai khoảng cách tâm tình rất ngắn của một người thầy giáo nghệ
sĩ chỉ yên lặng nhìn những đổ vỡ trước mắt, để hát lên tiếng hát của những
Kiều nhi giữa một đời nhiều gai nhiều hố.
Cuối năm 1972 tôi nhận được một lá thư ngắn của thầy, báo tin có thể sẽ
sang Úc tu nghiệp ngành thư viện học đường. Thời gian này chiến tranh đã
đến một ngã rẽ quan trọng, đánh dấu bằng hoà hội Paris. Trong một lá thứ
trước ngày lên đường, ông có nói đến những thao thức bồi hồi của mình về
những biến động có thể rất lớn mà ông linh cảm là mình có thể không
"may mắn" được nhìn tận mặt. Trong thời gian ông ở Úc, hai thầy
trò vẫn thường liên lạc với nhau, thường chỉ xoay quanh những chuyện học
thuật. Ông nhờ tôi tìm tài liệu về văn học trẻ thơ để làm khoá luận tốt
nghiệp. Thế rồi khoá học kết thúc. Tôi nhận được một tấm ảnh nhỏ ghi lại hìnhảnh
TĐQ ôm đàn hát về những tâm sự rất riêng mà chung về một cổ tích, một huyền
truyện đất nước một thời xa lạ.
Bẵng đi một thời gian rất lâu sau đó, tôi không có tin tức gì của thầy, vì
quả thật chẳng bao lâu sau khi ông về nước, những biến động lớn đã xô dạt
nhiều người, rất nhiều người phải chia xa một thời kì rất dài. Cho đến năm
1982, một hôm, rất tình cờ, tôi gặp lại thầy tại Sài gòn. Ông vừa về lại
thành phố không lâu, và đang dạy Anh văn tại Hội Trí Thức ở đường Nguyễn
Thông. Nhưng tôi thì gặp thầy trong một quán café ở Bàn Cờ. Bồi hồi nhìn
nhau trong hoàn cảnh tan tác, chúng tôi hỏi thăm nhau về gia đình và cuộc
sống. Hai thầy trò lại nói với nhau những câu chuyện về thời thế, về những
băn khoăn đối với tương lai con cái, về những đổ vỡ quá lớn mà những người
trí thức yêu tự do, yêu dân chủ phải trải qua sau một cuộc thay đổi trên
quê hương mình trân quý. Ông vẫn thung dung, nhưng không kém dứt khoát về
sự chọn lưa bắt buộc, vì tương lai hai cháu bé. Một lần nữa, tôi lại đọc
thấy tâm cảnh của tôi qua những suy nghĩ của người thầy học cũ.
Những ngày mới định cư ở Anh Quốc, tôi thường tìm đọc sách báo khắp nơi để
cập nhật tình hình sinh hoạt của người mình ở ngoài này. Tôi gửi bài viết
về Thế Kỷ 21. Một hôm tôi nhận được một mảnh giấy nhỏ kèm trong số báo biếu
và tiền nhuận bút. Tôi vui nỗi vui đoàn tụ khi nhìn chữ kí rất quen thuộc
của ông. Từ đó thỉnh thoảng tôi lại nhận được từ thầy đôi ba dòng thông tin
ngắn về những sinh hoạt văn nghệ của ông và một số cựu học sinh PCT ở bên
Cali. Cuộc mừng chưa được bao lâu thì lại bẵng tin. Một bạn văn cho biết
tin thầy ngã bệnh.
Tôi chợt thấy từ nay thời gian như đọng lại. Tôi nhớ đến buổi sáng mùa đông
năm xưa, ông đứng trên bục giảng và chừng như đang nói một mình về những
xúc cảm lãng đãng của một chàng tài tử phiêu bồng về chốn xa vời, ở đó chỉ
có "nghìn năm thơ thẩn bóng trăng chơi". Tôi nhói lòng khi nghĩ
đến cuộc chia xa từ đây giữa hai thầy trò. Từ nay, chỉ còn bảng lảng hình
ảnh người thầy cũ qua những khúc tâm tình dàn trải trên những dòng nhạc của
tập ca khúc Vườn Dâu Xanh ông mới gửi cho không lâu. Tôi hiểu vì sao từ
những ngày rất xa xưa, trong hai năm ngắn ngủi tại trường PCT, một người
thầy trẻ đã để lại những ấn chứng vang động trong tâm thức một người học
trò. Trong suốt thời gian dạy học của mình tôi có nhiều dịp nhìn lại mình,
và phải nói là những ngày tháng ở PCT thật là đẹp đẽ.
|