HỌC
TRÒ TRONG QUẢNG RA THI
(Trình bày tại Đại hội Quảng
Nam-Đà Nẵng ngày 9-11-2013 tại Toronto)
Trần
Gia Phụng
Quảng Nam do vua Lê Thánh Tông
thành lập năm 1471. Từ đó, Quảng Namtrải qua giặc giã liên miên cho
đến đầu thế kỷ 19. Năm 1802, vua GiaLong thống nhất đất nước, tổ chức
lại nền cai trị và tổ chức lại nềngiáo dục.
Nền giáo dục triều Nguyễn dựa
trên Nho giáo vì Nho giáo là một triếtthuyết chính trị hậu thuẫn cho chế độ
quân chủ. Nền giáo dục Nho giáotriều Nguyễn dùng chữ Tàu làm chuyển
ngữ. Chương trình học gồm Tứthư, Ngũ kinh trong Nho giáo, cùng sử
Việt và sử Trung Hoa, không cócác môn khoa học. Tổ chức thi cử gồm
các khoa thi Hương, thi Hội vàthi Đình. Thi Hương 3 năm 1 lần.
Thi Hội 1 năm sau thi Hương. ThiĐình tiếp theo ngay sau kỳ thi Hội.
TẠI
SAO HỌC TRÒ TRONG QUẢNG RA THI?
Thi Hương là thi tại địa phương,
nhưng không phải tỉnh nào cũng cótrung tâm thi. Dưới thời nhà Nguyễn,
có khoảng 30 tỉnh, và có từ 5đến 6 trung tâm thi Hương trên toàn cõi Việt
Nam. Học trò từ 3 hay 4hoặc 5 tỉnh tập trung lại cùng dự thi chung
một trung tâm.
Riêng tại miền Trung, trung tâm
Thừa Thiên (Huế), lúc đầu cho học trò5 tỉnh dự thi là Quảng Trị, Thừa
Thiên, Quảng Nam, Quảng Ngãi, BìnhĐịnh. Sau đó chỉ có 3 tỉnh từ Quảng
Trị vào Quảng Nam. Như vậy, muốnthi Hương thì học trò xứ Quảng phải
ra Huế dự thi.
Khoa thi Hương có 4 kỳ thi gọi
là 4 trường. Đậu cả 4 trường được cấpbằng cử nhân. Đậu 3
trường, rớt trường tư gọi là tú tài. (Tú tài chỉlà danh xưng an ủi
cho những người đạt điểm cao nhưng chưa đủ điểmđậu.) Cử nhân có nghĩa
là cử người ra làm quan với triều đình, tứcđậu cử nhân mới được triều đình
chính thức tuyển chọn ra giữ chức vụhành chánh.
Những người đậu cử nhân, học
thêm một năm nữa, thì hội nhau lại tạikinh đô để thi, gọi là thi Hội.
Thi Hội luôn luôn được tổ chức tạikinh đô Huế. Vì vậy những cử nhân
Quảng Nam đều phải tiếp tục ra Huếdự thi.
Thi Hội có kết quả, tức có người
đậu, kẻ rớt, nhưng không có sắp hạng.Những người trúng tuyển kỳ thi Hội vào
thi Đình ngay sau đó để phânthứ hạng cao thấp. “Đình” là cái
sân. Thi Đình là thi tại sân cungđiện nhà vua, thường là sân điện Cần
Chánh. Thi Đình không có ngườirớt, chỉ phân thành hai hạng: đậu cao
thì gọi là tiến sĩ, đậu thấp thìgọi là phó bảng.
KẾT
QUẢ THI CỬ CỦA HỌC TRÒ TRONG QUẢNG
Sau một thời gian cầm quyền, vua
Gia Long mở khoa thi Hương đầu tiênnăm 1807, nhưng chỉ từ Nghệ An trở ra
bắc, vùng đất cũ, mới có thísinh thi Hương khoa nầy, còn từ Thừa Thiên vào
nam thì chưa có thiHương vì mới xây dựng nền giáo dục, chưa có sĩ tử.
Khoa thi Hương năm1813 mới có thêm học trò ở Thừa Thiên và các tỉnh phía
nam.
Từ năm 1813 đến năm 1918, trước
sau có 42 khóa thi Hương tại ThừaThiên, tổng số 1263 thí sinh trúng tuyển
cử nhân, trong đó có 251người Quảng Nam, chiếm tỷ lệ khoảng 20%.
Cũng trong thời gian nầy, có 39
khoa thi Hội và thi Đình trên toànquốc. Trong 39 khoa thi nầy, số
tiến sĩ trúng tuyển là 281 người,Quảng Nam được 15 người tức khoảng hơn 5%;
và số phó bảng trúng tuyểnlà 264 người, Quảng Nam được 24 người, tỷ lệ
khoảng 9%.
Chẳng những số lượng cử nhân,
phó bảng và tiến sĩ Quảng Nam vào hạngkhá cao so với hơn 30 tỉnh trên toàn
quốc dưới thời nhà Nguyễn, màtỉnh Quảng Nam còn có hai khoa thi nổi tiếng,
vẫn còn được nhắc nhởcho đến ngày nay trong lịch sử khoa cử Nho học.
Thứ nhứt, vào khoa thi Đình năm
1898 (mậu tuất), Quảng Nam có ba ngườiđậu tiến sĩ (Phạm Liệu, Phan Quang,
Phạm Tuấn) và hai người đậu phóbảng (Ngô Truân, Dương Hiển Tiến), tạo thành
huyền thoại Ngũ phụ tềphi. (Năm chim phụng cùng bay) mà người Quảng Nam rất
hãnh diện.
Thứ hai, trong khoa thi Hương
trường thi Thừa Thiên năm 1900 (canhtý), có 14 thí sinh Quảng Nam trúng
tuyển trong tổng số 42 người thiđậu, đạt tỷ lệ 30%, và 4 thí sinh Quảng Nam
đậu đầu, từ thứ nhứt đếnthứ tư. (Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn Đình Hiến, Phan
Châu Trinh, Lê BáTrinh.)
Tóm lại, để tham dự các khoa thi
Nho học dưới thời nhà Nguyễn, từ thiHương đến thi Hội hoặc thi Đình, học
trò Quảng Nam đều phải ra kinh đôHuế dự thi. Đi đường bộ thì qua đèo
Hải Vân. Đi đường biển thì dùngghe men theo bờ biển ra Thừa Thiên.
Kết quả thi cử của học trò xứ
Quảng trong các khoa thi nầy khá khảquan, cho thấy người Quảng Nam, dầu khó
khăn, ngheo khổ, vẫn luôn luôncố gắng học hành để tiến thân, tạo thành
truyền thống ham học củangười Quảng Nam. Truyền thống nầy tồn tại mãi
cho đến ngày nay.
Trước khi kết thúc, xin lưu ý là
câu “Học trò trong Quảng ra thi”,thường đi đôi với câu thứ hai là “Thấy cô
gái Huế chân đi không đành”.Có hai cách giải thích xuất xứ hai câu
nầy. Thông thường, nhiềungười nghĩ rằng đây là hai câu ca dao.
Tuy nhiên, có tài liệu chorằng đây là hai câu thơ của thi sĩ Xuân Tâm (tên
thật là Phan Hạp),người làng Bảo An, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, mà
không cho biếtnguyên văn bài thơ. Giai thoại kể rằng Xuân Tâm ghi hai
câu nầy trênmột quyển sách tặng vợ. Viết trên sách tặng, thì không
biết là thơXuân Tâm hay là đây là hai câu ca dao có trước, rồi Xuân Tâm
viết tặngvợ, và người ta tưởng là của Xuân Tâm?
Dầu hai câu thơ nầy là của ai,
thực tế cho thấy khi đến viếng cố đô,đúng là khá nhiều du khách “thấy cô
gái Huế chân đi không đành”. Gầnđây, Phan Xuân Sinh, một nhà thơ
Quảng Nam khác, đã thốt lên “Ta chếtđiếng một thời em Thượng Tứ,/ Bởi nụ
cười môi mọng gái thâm cung.”(Chút tình cho Huế).
Các bạn thanh niên Quảng Nam
ngày nay nghĩ sao?
TRẦN GIA PHỤNG
(Toronto, 9-11-2013)
|