HAI NGƯỜI BẠN
Nguyên Quý Đại
Chúng tôi
sinh trưởng tại Hội An, kỷ niệm thời
thơ ấu thường rủ nhau rong chơi khắp
phố phường, có thể thuộc lòng từng con
đường, ngõ hẻm,dọc theo bờ tường
là những cánh hoa đủ màu khoe sắc thắm thơ mộng
cheo leo, lóng lánh dưới ánh sáng ban mai còn đọng
những giọt sương. Trong những đêm trăng
sáng trên những mái ngói âm dương rêu phong ấp ủ
dịu dàng. Hội An thành phố cổ,
hơn 400 năm trầm mặc bên dòng sông Hoài xanh biếc.
Cuối thế kỷ thứ 16 Hội An đã trở
thành trung tâm thương mãi lớn nhất xứ Đàng Trong. Giáo sĩ
Buzomi (1576-1639) năm 1615 đến Hội An và nhiều
Giáo sĩ Thiên chúa giáo tới truyền đạo, liên quan
tới việc sáng chế ra chữ Quốc Ngữ như
Giáo sĩ người Bồ Đào Nha Francesco de Pina
(1585-1625), cha Đắc Lộ dòng Tên Alexandre de
Rhode(1591-1660). Ông đến truyền giáo ở Đàng
Trong năm 1625 thời Chúa Nguyễn Phúc Ánh (1563-1635) và
Đàng Ngoài năm 1625 thời chúa Trịnh Tráng (1577-1657).
Thời gian Alexandre de Rhode giảng đạo tại
Việt Nam cũng là thời kỳ các cha thừa sai dòng Tên
truyền đạo từ Nam ra Bắc.…Dù Hội An tiếp xúc với văn minh thế
giới (Pháp, Hòa Lan, Ý, Bồ Đào Nha, Nhật ..) nhưng
Hội An có rất nhiều Chùa, cũng như đình làng
cổ kính, và chỉ có một nhà Thờ Thiên Chúa Giáo,
một Hội Thánh tin Lành và
Thánh Thất Cao Đài.
Đường phố
vắng xe, nên chúng tôi không sợ tai nạn, hai bên đường hàng phượng vĩ đỏ
rực với tiếng ve sầu, thỉnh thoảng nghe
tiếng rao bán cà rem, chè đậu ván, còn có tiếng rao
lạ tai “ai ngầu mạc nạm không“ của chú Ba
người Hoa bán thịt heo quay...Sáng tinh sương
mặt trời chưa thức giấc đã nghe tiếng
gõ trên sông Hoài của những người đánh cá,
tiếng rao bán bánh mì, đậu hũ, rau sống, hến
luộc ăn với bánh tráng nướng.. Sinh hoạt
của thành phố không ồn ào, thời chiến tranh quân
đội Đồng Minh đóng xa thành phố, thỉnh
thoảng vài xe Jeep của sĩ quan Đại Hàn,
người Mỹ làm việc dân chính dạy tiếng Anh..
và một số bác sĩ, y tá người Đức làm
việc tại bệnh viện Hội An.
Lịch
sử vang bóng một thời của Hội An đi vào qúa
khứ, nơi đây là thành phố buồn yên lặng,
không có rạp Ciné, không Hotel, chỉ có những quán ăn
nhỏ Cao lầu, mì Quảng, bún, cơm..Dân số không
đông, giọng nói cũng nhẹ nhàng hơn các nơi khác
của Quảng Nam, thành phố nhỏ nên người ta thường nói
„thượng Chùa Cầu hạ Âm Bổn“ ý nói sự hạn
hẹp của một khu vực,
hòa đồng cuộc sống, việc gì xảy ra bà
con ai cũng biết, cặp tình nhân yêu nhau
cả thành phố đều biết, nên đã yêu nhau thì
thường tới việc hôn nhân. Từ thế kỷ 20
Đà Nẵng lớn
nhất của miền Trung phát triển trên mọi bình
diện như: văn hoá, thương mãi, ngoại giao…
Hội An
bị lãng quên theo thời gian! Nhưng có một
điều Hội An chính là hình bóng ghi sâu vào ký ức,
một quá khứ sinh động trong đời sống
tinh thần hài hoà của người dân Quảng Nam, dù ngày
nay tôi sống cuộc đời viễn xứ nhưng kỷ
niệm của tuổi thơ bao giờ cũng
đẹp. Sau 30/4/75 tôi
và Hải vừa tròn 8 tuổi, chúng tôi phải rời Hội An trong hoàn cảnh khác nhau
Đầu
tháng ba năm 1975 cuộc chiến các tỉnh miền trung
khốc liệt, các quận của Quảng Nam đều
di tản về Đà Nẵng: Tam Kỳ, vĩnh Điện
bị bộ đội CS chiếm có cả xe T54 hộ
tống..Hội An còn yên tĩnh, nhưng bị cô lập
không thể đi Đà Nẵng bằng đường
bộ! Gia đình Hải
ở khu gia binh, Ba của Hải chỉ huy chiến
đấu ở tuyến đầu nên gia đình không
thể bỏ đi. Gia đình tôi chạy xuống cửa
Đại, mướn ghe đánh cá đưa ra tàu Hải
Quân lênh đênh trên biển, làn sóng người dùng
đủ các phương tiện ra tàu Hải quân
để hy vọng vào Sài Gòn, khi nghe tin TT Thiệu ra
lệnh bỏ Đà Nẵng ngày 29.3.1975 di tản chiến
thuật. Cảnh di tản thật đau thương,
Người chết, bị thương vô kể, vì bị
đạn pháo kích của bộ đội CS. Máu
người đổ ra đã đổi màu cát trắng
của biển thành đỏ sậm tang thương!....
Đến
Sài Gòn, gia đình tôi ở tạm với gia đình
người họ hàng, dù không được thỏa mái,
nhưng tạm ổn định vui mừng gia đình
thoát nạn CS. Niềm vui chưa trọn vẹn thì Sài Gòn
cùng chung số phận. Sau khi TT Dương Văn Minh kêu
gọi Quân đội VNCH ngưng chiến
đấu…Những thay đổi của Sài Gòn và miền
Nam chúng ta đã trải qua dưới chế độ CS.
Tưởng không nên nhắc lại những đau
thương 34 năm chưa dể lãng quên. Gia đình tôi
không về lại Hội An, vì nghe tin Cư xá công chức
sau chùa Viên Giác, ba mẹ tôi mua đã bị cán bộ CS
chiếm không còn tổ ấm để trở về, Ở
Sài gòn thì không có tờ khai gia đình «hộ khẩu »
lương thực mua theo tem phiếu. May mắn ba tôi không
phải bị tập trung cải tạo, vì làm giáo
chức, được hoãn dịch gia cảnh không động viên vào trường
sĩ quan Thủ Đức như những đồng
nghiệp khác bị tập trung cải tạo…Ba mẹ tôi
không được phép tiếp tục dạy học, nên
gia đình tôi đến ngã ba Ông Đồn mua vườn
lập nghiệp. Cuộc đời tuổi thơ của
chúng tôi thay đổi 180 độ, thật vất vả
thiếu ăn, thiếu bút vở để đi học.
Ở trường học sinh phải tập lao
động, đi thu lượm rác để chính phủ
bán làm con tàu Thống nhất
vv…
Ba
mẹ tôi quyết định phải vượt biển
tìm tự do. Ghe ra khơi nhiều ngày thiếu lương
thực, nước uống..may mắn được tàu Cap
Anamur vớt trước cơn bão lớn có thể
nhận chìm ghe chúng tôi xuống lòng đại dương.
Nên nhớ mãi con tàu «the ship, which we never forgot ». Chúng
tôi tạm vào trại ở Singapur và sau đó định
cư tại Bayern. Mỗi gia đình bắt đầu làm
lại cuộc đời mới. Gia đinh tôi, sau khi
học xong tiếng Đức, Ba mẹ tôi lớn tuổi
dù tốt nghiệp Đại học VIệt Nam, ở
Đức bằng Việt Nam
không được công nhận như ở Mỹ, nên
phải đi làm, cuối tuần học thêm một ngành
làm gương cho các con và xây
dựng sự nghiệp. Lúc nào ba
mẹ chúng tôi cũng nhắc nhở các con phải học
cho có điạ vị như người bản xứ,
để chứng minh chúng ta đến Đức hội
nhập tốt. Nhưng các con đừng quên ngoài bằng
cấp đạt được, các con cần phải
học làm NGƯỜI tốt, phải tự thắng mình,
khiêm tốn bao giờ cũng được mến
chuộng, hoà nhã với mọi người, có cuộc
sống yên vui là nhờ ở tâm thiện không gây thù kết
oán. Tính tốt nơi con người rất hiếm, trái
lại tính hư tật
xấu nhiều: kiêu căng, oán giận, tham tiền, háo
danh… đem cái tôi đáng ghét của mình để khoe khoang,
sẽ thất bại ngay trong cuộc sống dù bất
cứ ở đâu trên trái đất nầy…
Chúng tôi
nhận nước Đức làm quê hương thứ 2,
sống phải hội nhập, hướng thượng,
thăng hoa, để tự hào là nguồn gốc dòng
giống Lạc Hồng, có lịch sử kiêu hùng chống
ngoại xâm phương Bắc giữ vững bờ cõi
từ Ải Nam Quan tới tận mũi Cà Mau. Thế
hệ trẻ Việt Nam thành công ở các trường
Trung và Đại học, làm cho những người
ngọai quốc khác phải kính nể truyền thống
giáo dục của gia đình người Việt Nam.
Người Đức cũng có thiện cảm hơn
đối với người Việt Nam: „Tỷ số học sinh gốc Việt lấy bằng tú tài cao hơn
tỷ số học sinh Đức. Nếu so với nhóm
dân gốc Ý hay Thổ thì tỷ lệ cao gấp 5 lần“
theo tờ Die Zeit số 5, ngày 22.1.2009. Hơn
80.000 người là thuyền nhân, tường nhân đã có
đời sống tốt đẹp, con cái siêng năng,
học giỏi có những thành tích lẫy lừng. Nhưng
trong tập hợp xã hội chắc chắn không tránh
được trường hợp «con sâu làm rầu
nồi canh»
Gần 30
năm nơi xứ người, chúng ta có nhiều kỷ
niệm vui buồn, Tôi vẫn nhớ đến Hải,
người bạn thời thơ ấu, mỗi
người một phương trời, không liên lạc
được. Cuối năm qua bỗng dưng tôi
nhận mail qua địa chỉ một tờ báo, tòa
soạn chuyển với lời nhắn: «hy vọng tìm
lại bạn xưa, nếu có sự trùng hợp tên thì xin
bỏ qua“.
-Nhớ
về quê hương thời thơ ấu, dưới mái
trường xưa con đường ngập lá vàng
rơi , nhớ chúng mình một thời rong chơi..
Cuộc đời đổi thay chúng ta mỗi
người mỗi ngã
đối với Sơn đời sống thế
nào? Còn đối với tôi quê hương là những ngày
khổ cực, tuổi thơ đã mất tự bao
giờ!. Sau 30.4.1975, gia đình tôi bị đuổi ra
khỏi khu gia binh, thân phụ bị bắt tập trung
cải tạo ở Tiên Lãnh. Gia đình phải rời
Hội An đi vùng kinh tế mới, từng đoàn người
nối đuôi nhau, tay bồng vai gánh …hơn một ngày
đi bộ, cuối cùng đến khu đất hoang
vắng và điêu tàn của quận Quế Sơn, không
một cây cao, không một bóng mát, chỉ toàn là cỏ tranh
với mấy bụi chà là… Thanh niên ở các vùng như
Hương An, Bà Rén đều buộc lên đây để
khai hoang, xăm tìm mìn, bom đạn còn sót lại, giúp
đỡ cho bà con làm ruộng vườn cho kịp thời
vụ. Ban ngày thì từng đoàn thanh niên chia nhau ra các cánh
đồng để vỡ ruộng, tối trăng vừa nhô lên khỏi
ngọn tre, họ phải họp hội, phê bình học
tập chính trị tới nửa đêm... Tôi là chứng
nhân của lịch sử ghi nhận lại những hành vi
trả thù đê tiện của cán bộ, du kích, tên xã
đội trưởng, bắt anh cựu lính nghĩa quân,
leo lên bụi tre để chặt tre chẻ lạt, cây tre
chưa rớt xuống đất, nhưng nó nắm
ngọn tre giật mạnh, làm nửa cây tre bật ra
đâm vào bụng anh kia, máu chảy quá nhiều, rồi nó
vác cái thang đi chỗ khác, miệng nó bảo: „mầy
nhảy xuống đi, mày không dám nhảy sao mày dám đi
lính cho ngụy?“ Tôi thấy tội nghiệp cho anh ta nên
đi lấy cây tre có nhiều mắt dựng lên để
cho anh kia bò xuống …đó chỉ là một trong số
nhiều hành động trả thù ở đây tôi tận
mắt chứng kiến. Cán bộ CS đức ít mà hưởng
nhiều quyền lợi, tài
trí kém mà địa vị cao, công nhỏ nhưng
bổng lộc lớn, đó là cái lý của kẻ
chiến thắng. Kiến thức kém, thiếu học, nên
thời đó cuối tuần tôi phải dạy bình dân
học vụ cho họ. Đối với những
người đã hy sinh trong cuộc chiến là „liệt
sĩ“ nhà nước buộc nhân dân đóng tiền xây
đài tưởng niệm, tìm hài cốt để lập
nghiã trang…nghiã trang được làm, có mộ bia nhưng
không có hài cốt phiá dưới. Những người hy
sinh cho lý tưởng CS, rồi bị phản bội hài
cốt bỏ quên.. nên
việc cán bộ lấy tiền của người nghèo
không có gì mới lạ ở Việt Nam
Trong
những năm 75&76 vào những ngày giáp hạt (là
những ngày cuối vụ mùa, khi lúa trong nhà thì hết, lúa
ngoài đồng thì chưa chín kịp, những ngày này trong
gia đình tôi không còn gạo để ăn. Cả nhà
phải ăn khoai lang để trừ bữa. Lúc bây
giờ tôi và các bạn học cứ mỗi tuần
phải ở lại trường một buổi
để lao động, những ngày đó tôi
thường đem theo vài củ khoai lang để ăn
trưa. Nhưng sợ xấu hổ với bạn bè, nên
đành ăn lén ở dọc đường. Gia
người bạn học, hiểu được hoàn
cảnh như vậy nên cứ mỗi lần ở
lại trường lao động, Gia thường chia cho
tôi nửa cục cơm nguội ăn với muối mè
mặn chát…
Mùa hè năm 1980,
ruộng đất bị quốc doanh cho Hợp Tác Xã nông
nghiệp, chỉ còn lại miếng đất
vườn thổ cư, để chăn nuôi gà vịt.
HTX nông nghiệp nông dân làm ruộng mổi ngày chỉ
được tính bằng điểm, rồi cuối
vụ mùa, qui ra thành lúa. Đời sống nông thôn ở
Quảng Nam nói chung, và ở quê tôi nói riêng, lúc ấy
đều thiếu ăn trầm trọng, Đi đâu ai
cũng kêu ca „lúa“ với „điểm“ (lúa chứa
đầy kho ông chủ nhiệm, dân thì đói khát , kẻ
đi xin). Năm ấy
lại hạn hán mất mùa nên bà con nông dân đều
vất vả khốn cùng. Ngoài đồng thì ruộng khô
cỏ cháy, trong nhà thì người ta ngồi khoanh tay nhìn ra
nhũng bụi chuối quanh vườn đang chết
dần, chết mòn qua những đợt nắng nóng kéo
dài. Cả xóm đều trông vào một cái giếng
đầu làng, tất cả đều khô cạn, cứ gà
gáy đầu canh thì nghe tiếng khua thùng loạt xoạt
của những người đi gánh nước trong
đêm. Gia đình tôi sống phụ thuộc vào nghề
chằm nón lá. Mấy chị em xúm nhau chằm nón,
để má tôi đem lên nguồn đổi lúa, bắp
đem về ăn qua ngày, Còn những người không đi đâu như Thím Do (
chồng thím và ba tôi đều bị tập trung ở Tiên
Lãnh) Thím và tôi cùng nhau lên núi phá rừng vở đất
trồng khoai. Cứ sáng sớm là hai người đã có
mặt ở trên núi để đào gốc cây lật
đá, chiều thì gánh rể, gốc cây đem về làm
củi. Ngày nào cũng vậy, để quên đi nỗi
mệt nhọc thím thường kể lại thời
học Phan Châu Trinh mơ mộng cuộc đời
thăng tiến, không ngờ đổi đời trở
thành một nông dân chân lấm tay bùn, phải nuôi các con còn
nhỏ dại thiếu ăn. Nếu ngày xưa „Bác“ đi
theo con đường của
cụ Phan Châu Trinh dành lại độc lập thì thím cháu
không đến nỗi khổ như vậy.. khỏang hơn hai tháng sau mới
có được miếng đất trống
để trồng khoai lang. Hai đứa con của thím
Do bây giờ còn nhỏ, con Tiên con Vân theo mẹ để
khiêng gốc cây đem về, nhưng chiếc dóng thì
dài hai đứa thì thấp nên củi cứ đổ
lên đổ xuống trên đường, trông tụi nó
thật tội nghiệp. Bây giờ hồi tưởng
lại những hình ảnh đó, tôi không dám nghĩ là
mình có thể làm được những việc nặng
nhọc như vậy. Có thể nhờ trôi luyện trong
khổ đau, nghèo khó của thời cuộc nên sang Mỹ
các con thím D. đều học hành thành tài. Thu Hương con
út thím ra trường tiến sĩ tâm lý học vào hạng
giỏi.
Thời
đó đời sống gia đình túng
thiếu nhưng phải dành dụm tiền đi thăm
nuôi, ở trại tù Tiên Lãnh đi đường bộ, phải
băng rừng lội suối và phải qua một cái
dốc, gọi là dốc Lung, nếu độc giả có thân
nhân ở tù TL khó có thể
quên cái dốc nầy nó cao vời vợi. Khi đi lên
dốc tôi phải mướn người gánh đồ
đi qua, nhưng vì dốc cao quá nên tôi đi theo không
kịp. Người ta gánh đồ đi mất luôn, nên
khi vào trại thăm Ba tôi chỉ có vỏn vẹn một
bình đông nước lạnh! Lúc đó Ba tôi cho một cái
ca làm bằng vỏ quả đạn, nhớ lại ngày đi
thăm tù ở Tiên Lãnh, tôi giữ
nó làm kỷ niệm cho tới bây
giờ. Cựu tù nhân thưở
nào ở Tiên Lãnh nhìn lại kỷ vật, khó có thể quên được
những tháng ngày nghiệt ngã, và nhớ lại những bạn
tù đã bỏ mình nơi núi rừng xa vắng, trong đó có
bác sĩ Lương quá tuyệt vọng uống thuốc tự
tử, những sĩ quan xuất thân từ mái trường
Phan Châu Trinh, Trần Quý Cáp luôn
thể hiện tinh thần bất khuất…..
Với truyền thống từ xưa
„Quảng Nam hay cãi ..“ bởi vậy đàn ông Quảng Nam
tinh thần cứng rắn, nhiệt tình thích hoạt
động đấu tranh, chống lại bất công xã
hội.. Nhưng đàn bà thì tình yêu không nở rộ
tưng bừng, nhưng sâu lắng luôn thể hiện
tấm lòng chung thủy, cần cù nhẫn nhục. Chồng
đi tù, nhưng vợ ở nhà đảm đang lo cho các
con, dành dụm tiềm đi thăm chồng không quản
ngại nắng sương. Tôi xin phép vinh danh Mẹ và đàn
bà của Quảng Nam mãi mãi trong lòng người ngưỡng
mộ vô biên.