GIỌNG CA HỜI
Đỗ Thái Nhiên
Hôm ấy là một sáng
chớm Đông năm 2011, nhạc sĩ Nhật Ngân và tôi
gặp nhau tại quán Coffee Factory, Westminster, California.
Vẫn như thường lệ, tôi vỗ vai Nhật
Ngân, hỏi thăm:
-Sao, khỏe không?
Nhật Ngân nhìn tôi, trả lời, giọng
hơi chùng xuống:
-Vẫn khỏe thôi!
Biết được Nhật Ngân đang trong
hồi âu lo về sức khỏe, tôi vội vàng nói qua
chuyện khác:
-Nghe nói mấy ngày nay ông
hướng dẫn ca sĩ Chế Linh đi thăm Bolsa,
có chuyện gì vui không?
-Không có gì ầm ỉ. Tuy
nhiên Chế Linh có nói cho tớ nghe một suy nghĩ rất
đáng chú ý.
-Suy nghĩ như thế
nào mà được ông nâng lên hàng “rất đáng chú ý?”
Ngay sau câu hỏi của tôi, Nhật Ngân
đặt ly café xuống bàn, ngồi thẳng
người, nét mặt nghiêm trang hẳn lên, lời lẽ
đầy nhiệt tình:
-Chuyện như thế
này: Chế Linh và tớ là bạn rất nhiều năm.
Tụi tớ gặp nhau ở những lần đi trình
diễn chung, ở phòng trà, quán nhậu,
nhiều khi tại những cuộc liên hoan của giới
văn nghệ sĩ. Tình bạn giữa Chế Linh và
tớ là tình bạn “dậm chân tại chỗ”, không thân,
không sơ. Mãi cho đến cách nay ba hôm, nhân cùng ăn sáng
với Chế Linh, tớ có hỏi Chế Linh một
vấn đề như sau: “Giọng hát của ông là
giọng trầm buồn, kéo dài trong ủ ê, hoàn toàn
thiếu chất tươi mát, thế nhưng từ
nhiều thập niên qua, thính giả hâm mộ Chế Linh
vẫn rất đông, vẫn tăng chứ không giảm,
ông có hiểu tại sao không?”.
Nghe tớ (Nhật Ngân)
hỏi, Chế Linh nhìn mung ra ngoài đường phố,
chậm rãi trả lời: “ Tôi
tự biết giọng ca của tôi là giọng ca yếm
thế, buồn miên man và ray rứt muôn thuở... Thế
nhưng tôi quyết định không bao giờ từ
giả giọng ca kia vì đó là giọng ca Hời,
giọng ca của quê hương tôi, của đồng bào
tôi, giọng ca u-hoài từ người dân của một
quốc gia đã vĩnh viễn bị xoá tên trên bản
đồ thế giới. Đất nước Việt
Nam tuy vẫn tồn tại, thế nhưng người
Việt ngày nay bao giờ cũng cảm thấy xót xa mỗi lần nghĩ tới quê
hương Việt trên các địa bàn: văn hoá,
chính trị, xã hội, vận mệnh của đất
nước…Trong tâm tình xót xa vừa kể, người
Việt Nam thấp thoáng nhìn thấy một dấu hỏi
thật lớn: Phải chăng tương lai của
Việt Nam sẽ là hiện tại của người
Hời? Dấu hỏi này chính là gạch
nối thật rõ nét giữa tâm tình của hai dân tộc
Hời-Việt. Đồng thời, nó cũng là lý do
giải thích tại sao giọng ca Hời, giọng ca
Chế Linh cuốn hút người Việt, cuốn hút
một cách vô thức, âm thầm bao nhiêu, ray rứt bấy
nhiêu. ”
Dường như bị
ảnh hưởng bởi thanh âm của hai chữ “ray
rứt”, Nhật Ngân ngừng nói vài giây rồi nhìn tôi và nói
tiếp:
-Chế Linh
vừa dứt lời, tớ thực sự thẩn
thờ. Tớ cảm thấy kính
trọng Chế Linh hơn, gần gủi Chế Linh
hơn. Tớ hối tiếc là đã
bỏ đi một thời gian dài không giao thiệp mật
thiết với Chế Linh. Từ nay Chế Linh
sẽ là người bạn thân của tớ!
Câu chuyện
giữa Nhật Ngân và Chế Linh khiến chúng ta không
thể không suy nghĩ chi tiết hơn về dòng sống
của dân tộc Hời trong quá khứ xa xăm.
Nếu Việt Nam ngày nay
đang huênh hoang với kiểu sống đế
vương của giai cấp đại-gia-đỏ thì
xã hội Chiêm Thành ngày xưa cũng một thời
dương dương tự đắc trong rượu thơm, gái đẹp:
“Đây trong ánh ngọc
lưu ly mờ ảo,
Vua quan Chiêm say
đắm thịt da ngà,
Những Chiêm nữ
mơ màng trong tiếng sáo
Cùng
nhịp nhàng uyển chuyển uốn mình hoa.”
(Chế Lan Viên)
Nếu ngày nay Việt Nam đang ngộp thở
trong nồi canh với “một bầy sâu”(Lời
chủ tịch nước Trương Tấn Sang) hay
tệ hại hơn nữa, đang lâm nguy với căn
bệnh ung thư (Lời cựu tổng bí thư Lê
Khả Phiêu) thì nước Hời với đền
xưa, tháp cỗ đã lìa trần từ rất lâu:
“Đây, những tháp gầy
mòn vì mong đợi,
Những đền
xưa đổ nát dưới thời gian,
Những
sông vắng lê mình trong đêm tối.
Những
tượng Chàm lở lói rỉ rên than.”
(Chế Lan Viên)
Có thể nói được rằng lịch
sử Hời và lịch sử CHXHCNViệt Nam có những nét rất giống nhau:
cả hai nhà thống trị đều là cội nguồn
của bất công xã hội, cả hai đều
độc đoán, đều tiêu xài tài nguyên quốc gia
không một chút nương tay. Đặc biệt, Xã
hội Việt Nam tuy chưa chết cả hồn lẩn
xác như Chiêm thành, thế nhưng trong thực tế, xác
Việt Nam đang nằm dưới áp lực xâm lăng
nặng nề của Bắc Triều, hồn Việt Nam
đang chết từng mảng lớn: đạo
đức Việt Nam băng hoại, giáo dục Việt
Nam lạc hậu, văn hoá Việt Nam suy đồi, tình
tự Việt Nam vô cảm, xã hội Việt Nam cá lớn
nuốt cá bé, nhà cầm quyền Việt Nam là hung thần
của người dân…Nỗi buồn về một quê
hương Hời đã chết từ nhiều thế
kỷ trước và nỗi buồn về một Việt
Nam đang chết từ từ, nhưng chết trong
cực kỳ thê thảm, không ai biết được
buồn nào lớn lao hơn buồn nào. Tuy nhiên có một
sự thực mọi người biết rất rõ:
Buồn Việt và buồn Hời là hai khối buồn
đồng điệu. Tính đồng điệu kia được giọng ca Hời gói ghém,
chuyên chở và vang vang khắp bốn phương trời.
Nó cuốn hút biết bao thế hệ
Việt Nam. Nó giúp cho gịong hát Chế
Linh tồn tại miên viễn. Nó làm
cho Nhật Ngân hối tiếc là đã không trân trọng
Chế Linh sớm hơn.
Chỉ vài tuần lễ sau lời tâm tình “Sẽ
là bạn thân của Chế Linh”, Nhật Ngân âm thầm
biệt khuất giang hồ. Nhờ
gịong ca Hời, Nhật Ngân nhận ra Chế Linh. Nhờ lời kể của Nhật Ngân về
Chế Linh, tôi “nhận ra” Nhật Ngân. Sự
thực, Nhật Ngân và tôi là bạn của nhau từ
giữa thập niên 1950 khi hai chúng tôi cùng sống trong cư
xá Đoàn Kết Đà Nẵng, cùng học trường
Trung học Phan Châu Trinh Đà Nẵng. Tại sao mãi cho
tới bây giờ tôi mới bảo tôi “nhận ra” Nhật
Ngân? Nhận ra ở đây là nhận ra: Nhật Ngân yêu
nước sâu sắc và thiết tha hơn trước
đây tôi nghĩ rất nhiều. Nhật Ngân yêu
nước đến độ yêu luôn cả những
người yêu nước, yêu nước đến
độ đôi mắt thẩn thờ khi nhìn ra nỗi buồn
Hời và nỗi đau Việt đã lấy giọng ca
Hời làm ngôn ngữ chung.
Trên dòng đời, rất nhiều
khi một người có một việc cần làm nhưng
đã không biết để làm. Về sau, khi người này biết được việc
cần làm là việc gì thì việc kia đã trôi xa, rất
xa, vượt hẳn ra ngoài tầm tay của
đương sự. Một cách lãng mạn,
người Viêt Nam gọi tình huống vừa kể là
“lỡ một chuyến đò”. Đời
người có bao nhiêu chuyến đò đã lỡ? Sau hơn năm mươi năm là bạn
đồng môn với Nhật Ngân tôi mới thấy
được bề cao và độ sâu của lòng yêu
nước trong Nhật Ngân. Khi tôi
vừa “thấy được” như vừa kể thì
chuyến đò của Nhật Ngân đã bất ngờ
rời bỏ bến sinh để đi qua bờ tử.
Như vậy là tôi đã “lỡ một
chuyến đò”. Bên này bờ của
chuyến đò đã lỡ, trong tâm tưởng, tôi
ân cần thả nhẹ xuống dòng sông một nhánh
phượng đỏ. Hoa phượng là
sự gợi nhớ tình bạn thuở học trò cách nay
già nửa thế kỷ. Màu đỏ của hoa
phượng là biểu tượng cho lòng yêu thương
Quê Hương được gieo trồng từ
trường lớp Phan Châu Trinh Đà Nẵng, được
tôi luyện trong giông bão của lịch sử,
được thăng hoa trên những tác phẩm văn,
thi, nhạc hoạ của các tác giả đã thấm
nhuần tinh thần Phan Châu Trinh./.
Đỗ Thái Nhiên
(dothainhien.blog.com)