GẶP LẠI BẠN CŨ
Đỗ Thái Nhiên
Sống là sống với
bạn bè. Không có bạn bè, đời sống chỉ là
cành cây khô. Tôi có rất nhiều bạn: bạn học cùng
lớp, bạn văn thơ, bạn đồng nghiệp,
bạn trong quân ngũ… Với bài viết này, tôi chỉ
muốn nói tới hai người bạn đặc biệt.
Đó là các anh Nguyễn Đăng Trừng và Lê Hiếu
Đằng. Trừng, Đằng và tôi cùng học chung
suốt bảy năm tại trường trung học Phan
Châu Trinh Đà Nẵng. Thời gian sau, chúng tôi lại
hội ngộ ở nhiều giảng đường khác
nhau của Đại Học Luật Khoa, Saigon.
Tháng 06/1967 tôi hoàn tất
học trình ban Cử Nhân Luật và bắt đầu làm
việc trong hệ thống tòa án,
chế độ VNCH. Chiến trận Mậu Thân 1968
đã cuốn hút Trừng và Đằng vào hoạt
động tại các mật
khu của CSVN. Từ đó, Trừng, Đằng và tôi
sống ngăn cách bởi giới tuyến chính trị rõ
rệt. Do vậy, chúng tôi xa nhau. Đây là lần biệt ly
thứ nhất.
Biến cố 30/04/1975 tạo
cơ hội để Trừng và Đằng bước
lên sân khấu chính trị Việt Nam như những quan
chức nhiều triển vọng của chế độ
mới, còn được đảng Cộng Sản
gọi là “chế độ cách mạng”. Dưới
mắt nhìn của tôi, 30/04/75 là một thất trận
đau buồn của tự do dân chủ. Tôi chia buồn
với người bạn tự do dân chủ của
tôi bằng những hoạt
động bị cơ quan công an lên án là “âm mưu lật
đổ chính quyền cách mạng”. Khám Chí Hòa là nơi tôi
hoàn toàn tĩnh tâm để đối diện với
thực tế rằng: thời chiến tranh Việt Nam,
Trừng và Đằng sống kín đáo trong mật khu, tôi
là thị dân của thành phố Saigon. Hòa bình trở
lại, Trừng và Đằng nghiễm nhiên là hai nhân
vật của chế độ mới. Tôi là người
tù của chế độ này. Đây là lần biệt ly
thứ hai giữa ba cựu học sinh trường trung
học Phan Châu Trinh Đà Nẵng.
Tháng 05/1985, từ Cầu Kè-Trà
Vinh tôi vượt biên. Tháng 02/1986 tôi có mặt tại Hoa
Kỳ. Bây giờ, Trừng và Đằng đang sống
vui vẻ và làm việc bận rộn trên quê hương
Việt Nam. Tôi là người ly hương miễn
cưỡng. Đây là lần biệt ly thứ ba của ba
người thuộc thế hệ 1940.
Biệt ly ba lần hay
biệt ly nhiều lần hơn nữa, tôi vẫn không bao
giờ quên các bạn Quảng Nam của tôi. Trừng,
Đằng và tôi chẳng những có chung những ngày niên
thiếu dưới mái trường Phan Châu Trinh thân yêu
mả chúng tôi còn có chung cả trời Quảng Nam, có chung
cả tâm tình Quảng Nam. Thanh âm Quảng Nam bao giờ
cũng là một gợi nhớ xoáy tim óc đến Non
Nước, Mỹ Sơn, Phước Tường,
Thường Đức, Quế Sơn…Vùng “đất cày
lên sỏi đá” này lại được vỗ về
bởi các sông Thu Bồn, Vu Gia và Hàn Giang . Nhờ vào cử
chỉ vỗ về kia, Quảng Nam-Đà Nẵng thừa sức
chịu đựng những nóng cháy da, những lạnh
nhức xương. Phải chăng cực đoan nóng và
cực đoan lạnh đã sản sinh ra “Quảng Nam
tính”? Quảng Nam hay cãi bởi vì Quảng Nam thường
xuyên hồ nghi: sau lưng mỗi chân lý đều có
mật ngọt. Quảng Nam là quê hương của cách
mạng bởi vì Quảng Nam căm thù bất công, căm
thù tham ô, nhũng lạm. Quảng Nam thích hài hước
bởi vì Quảng Nam muốn dùng âm vang của tiếng
cười để khỏa lấp niềm đau
của kiếp dân sinh cùng khổ… Quảng Nam không chấp
nhận vua chúa hà khắc. Quảng Nam không cúi đầu
trước độc tài, độc đảng.
Quảng Nam ngạo nghễ với Hoàng Diệu, Trần
Quý Cáp, Phan Châu Trinh, Phan Khôi và vô số danh nhân lẩy
lừng khác… Với lòng ngưỡng vọng vô biên
hướng về
Quảng-Nam-bướng-bỉnh-nhưng-yêu-nước-thiết-tha,
dầu bó gối trong ngục tù Chí Hòa hay sống hiu
quạnh trên đất khách quê người, bao giờ tôi
cũng ấp ủ trong lòng một ước mơ.
Ước mơ mai kia mốt nọ, Quảng-Nam-Trừng
và Quảng-Nam-Đằng sẽ làm điều gì đó
khiến cho khí phách Quảng Nam bừng bừng sống
dậy. Giờ đây, mơ
ước kia đã thành hiện thực:
Ngày 02/11/2010, tại nghị
trường của quốc hội Viêt Nam, Luật Sư
Nguyễn Đăng Trừng, Chủ Tịch Đoàn
Luật Sư Saigon kiêm Đại Biểu Quốc Hội
đã dõng dạc lên án các loại công ty quốc doanh, ông xác
quyết:
“Cách quản trị doanh
nghiệp tại các tập đoàn kinh tế và tổng công
ty nhà nước hiện nay làm cho các tổng giám
đốc các tập đoàn kinh tế và tổng công ty nhà
nước coi vốn nhà nước là tài sản của
trời cho, của bá tánh, của thiên hạ và chi tiêu
sử dụng thoải mái mà không cần tính toán hiệu
quả, giống như một bà nội trợ đi
chợ bằng tiền của người khác, mua lung tung,
kể cả những thứ không xài cũng mua. Tình
trạng này đã xảy ra tai Vinashin. Thủ tướng
đã chỉ đạo không được mua tàu đã qua
sử dụng, tàu cũ, nhưng Vinashin vẫn mua tàu Hoa
Sen, tàu cũ.
Chính phủ đã dành quá
nhiều ưu đãi cho các tập đoàn kinh tế và
tổng công ty nhà nước, coi doanh nghiệp nhà
nước là con chính thức, con trong giá thú, còn các thành
phần kinh tế khác như kinh tế tư nhân là con ngoài
luồng, con nuôi, thậm chí các doanh nghiệp có vốn nhà
nước không chỉ coi là con chính thức trong giá thú mà
còn coi là quý tử. Con cái mà quá nuông chiều, hư hỏng
là chuyện bình thường, dễ hiểu, trách nhiệm
đó thuộc về chính phủ, thuộc về thủ
tướng không thể thoái thác được”.
Ngày 11/11/2010, trên mạng Bauxite Viêt Nam (boxitvn.net) ông Lê
Hiếu Đằng – Luật gia, đương kim Phó
Chủ nhiệm Hội đồng Tư vấn về Dân
chủ và Pháp luật thuộc Ủy Ban Trung Ương
Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam – đã cho phổ
biến bài viết có tựa đề:
“
Kiến nghị dừng khai thác bauxite do các nhà trí thức
khởi xướng phải được công bố cho
toàn dân và Quốc hội”. Bài này gồm bốn trọng điểm:
Trọng điểm một: Nhắc lại
sự việc ông Lê Hiếu Đằng cùng nhiều nhân
sĩ và trí thức Việt Nam đã hai lần ký tên vào Kiến
nghị dừng khai thác bauxite. Thế nhưng kiến
nghị này đã bị giới truyền thông trong
nước làm như “không nghe, không thấy, không biết”.
Lê Hiếu Đằng nhận định:
“ Một kiến nghị quan
trọng như thế phải được công bố
rộng rãi để mọi đại biểu Quốc
hội và toàn dân biết. Như thế là cung cấp thông
tin đa chiều để các vị đại biểu
Quốc hội và nhân dân lựa chọn. Đại
biểu và nhân dân phải có điều kiện đối
chiếu những luận điểm bênh vực khai thác
bauxite của Bộ Công Thương và tập đoàn TKV
với những luận điểm phản biện
của các trí thức trong kiến nghị để suy
nghĩ và rút ra kết luận”.
Lê Hiếu Đằng
nói chuyện với truyền thông:
“ Tôi xin hỏi giới nhà báo
nước ta: Tại sao các bạn phải sợ mà không
dám đăng tải một kiến nghị có tầm quan
yếu đến vân mệnh dân tộc, đã được
lưu truyền khá lâu trên mạng, đã được
chính thức gửi tới Quốc hội? Như thế
có phải các bạn đã từ bỏ cái quyền quan trọng
nhất của mình và cũng là yêu cầu cao nhất
của nhân dân với các bạn: Thông tin trung thực
những gì liên quan đến lợi ích của
người dân? Tôi tin rằng tờ báo nào mạnh dạn
đăng tải Kiến nghị nói trên sẽ chẳng
bị ai bắt tù, ngược lại sẽ
được nhân dân quý trọng.”
Trọng điểm hai: Lê
Hiếu Đằng viết
“Trong việc xây dựng các nhà
máy bauxite, ta thấy nhân công Trung Quốc vào rất đông.
Thậm chí có hiện tượng hình thành “làng Trung
Quốc” ở Tân Rai. Chúng ta không thể không đặt câu
hỏi: Trong số nhân công đó, có bao nhiêu quân nhân mặc
áo dân sự? Họ làm gì ở đấy chúng ta có kiểm
soát được không?...... Lịch sử quan hệ
Việt-Trung buộc chúng ta phải cảnh giác. Bản
chất, mưu toan bá quyền của người hàng xóm
không hề thay đổi……. Trong khi đó, hình như tinh
thần cảnh giác của các vị lãnh đạo lại
khá hời hợt, cho nên mới để lọt những
chủ trương nguy hiểm như khai thác bauxite, cho thuê
rừng đầu nguồn.
Tại sao có thể như
thế? Tôi không sao có thể trả lời được
câu hỏi này. Có phải các vị chạy theo lợi ích
kinh tế mà quên mối lo an nguy lâu dài của đất
nước? Có phải các vị bị chi phối bởi
các tập đoàn kinh tế? Đây là lúc các vị phải
trả lời rõ ràng để giải tỏa những
băn khoăn chính đáng của người dân.”
Trọng điểm ba: Lời kêu gọi.
Lê Hiếu Đằng kêu
gọi các đồng chí của ông trong khu chiến cũ:
“Nhân đây tôi cũng xin qua
mạng Bauxite Việt Nam để nhắn nhủ
những đồng chí đã từng sát cánh chiến
đấu với tôi ở nội thành Saigon – Gia Định,
các chiến trường Đông Nam Bộ, ven Saigon… Đó
là các đồng chí Nguyễn Minh Triết, Trương
Tấn Sang, Lê Thanh Hải. Mong các đồng chí lên
tiếng tranh đấu để ngăn chặn những
nguy cơ cho đất nước như Dự án Bauxite và
việc cho thuê rừng đầu nguồn nói trên.”
Lê Hiếu Đằng kêu
gọi toàn đảng, toàn dân:
“Đã đến lúc tất cả
chúng ta, cán bộ, đảng viên, nhân dân, phải có ý
kiến, không thể nhân nhượng, không thể dĩ hòa
vi quý với cái sai, cái nguy hại cho đất
nước, cho dân tộc. Chúng ta không có gì phải sợ vì
chúng ta trong sáng, chúng ta thực tâm yêu nước,
thương nòi, chúng ta làm đúng theo luật pháp, hiến
pháp.”
Trọng điểm bốn:
Đặt vấn đề, nhận định vấn
đề, và giải quyết vấn đề (còn gọi
là phương pháp luận) là ba hiểu biết cốt
lỏi của khoa học lý luận. Muốn ngăn
chặn thảm họa Bauxite và cho thuê rừng đầu
nguồn và muôn vàn khó khăn khác của đất
nước, vấn đề tiên quyết là người
dân phải “không sợ”. Lê Hiếu Đằng tâm sự:
“Bản thân tôi cũng có
những lúc hơi e ngại khi cần lên tiếng
đấu tranh cho lẽ phải. Những lúc ấy tôi
tự nhắc mình: Khi bị tòa án Vùng Ba Chiến Thuật
Saigon kết án tử hình vắng mặt, mình vẫn coi
khinh, vẫn mỉm cười và dấn thân chiến
đấu, thì cớ gì bây giờ mình phải sợ hãi các
đồng chí của mình?”
Lời tâm sự của Lê
Hiếu Đằng là một khẳng định sâu
sắc rằng : lòng coi khinh là nền tảng căn
bản của tâm lý không sợ. Vì vậy muốn không
sợ các “đồng chí” của mình thì hãy coi khinh các
“đồng chí” ấy. Từ dũng khí không sợ kia,
người Việt Nam cần phải làm gì để
cứu nước? Trước tiên chúng ta hãy tìm
đường hồi sinh nội lực dân tộc.
Ngày 15/11/2010, vẫn trên
mạng Bauxite Việt Nam, dưới bài viết: “Dân
Chủ là giải pháp cho các vấn đề của
đất nước”, Lê Hiếu Đằng mô
tả bức tranh nội lực dân tộc như sau:
“Ngày hôm nay hầu như ai
cũng thấy đất nước đang phải
đối mặt với những thách thức cực
kỳ nghiêm trọng về mọi mặt kinh tế, môi
sinh, quốc phòng, văn hóa xã hội, giáo dục. Nếu
tình hình cứ phát triển như thế này thì mục tiêu
“Dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công
bằng, văn minh” khó lòng thực hiện.
Một vấn đề
đáng lo hàng đầu đang nổi rõ: sự phân hóa xã
hội sâu sắc, những người ăn bám vào tập
đoàn kinh tế nhà nước, vào đầu tư công,
vào buôn lậu, tham nhũng đang giàu lên rất nhanh trong
khi đại đa số nhân dân cực khổ. Thử
nhìn thực trạng TPHCM mà coi: Khu đô thị hiện
đại sang trọng Phú Mỹ Hưng được coi
là đô thị kiểu mẫu cùng với nhiều khu
đô thị sang trọng khác, nhưng những ai đang
sống ở đó? Trong khi người nông dân gốc gác
lâu đời ở những khu vực này bị giải
tỏa, hiện đi đâu, sinh sống thế nào, chúng ta
có biết không? Và trong khi một bộ phận không nhỏ
dân cư thành phố sống thường trực trong
cảnh nước ngập, sụp hố trên
đường, bất an về đủ thứ tai
nạn. Cách làm ăn của chúng ta liệu có khác gì thời
kỳ tư bản man rợ: xua đuổi nông dân
để chiếm đất, bần cùng hóa một bộ
phận dân cư để công nghiệp hóa, hiện
đại hóa. Bàn tay long lá của các tập đoàn lợi
ích ngày càng thọc sâu vào các chính sách quốc gia. Thật
hết sức đáng lo. Lòng dân đang rất bất an,
dân không thể tiếp tục tin yêu chế độ,
nếu tình hình cứ tiếp tục thế này.”
Đứng trước
bức tranh tiêu điều của nội lực dân
tộc, Lê Hiếu Đằng dứt khoát nêu bật
giải pháp cho Viêt Nam:
“Những vấn đề
trên không thể nào giải quyết, nếu không nhanh chóng
thực hiện dân chủ thực sự.”
Nhằm hổ trợ cho
giải pháp của mình, Lê Hiếu Đằng nhấn
mạnh:
“Đảng
Cộng Sản phải nhận rõ vấn đề
để chủ động chuyển đổi thể
chế chính trị phù hợp với tình hình mới. Hãy nhìn
sang Trung Quốc, ngay thủ tướng Ôn Gia Bảo
cũng đã công khai cảnh báo nguy cơ của
nước này, nếu không cải cách chính trị để dân
chủ hóa xã hội.”
Một mặt kêu gọi
đảng CSVN hãy “chủ động chuyển đổi
thể chế chính trị”, mặt khác, Lê Hiếu
Đằng vẫn nghiêm chỉnh thuyết phục
người dân:
“Toàn dân không thể thụ
động ngồi chờ chính quyền tự thay
đổi. Trong đời hoạt động của mình,
tôi luôn được dạy rằng: Không có người
cai trị nào tự nguyện từ bỏ quyền
lực, ghế ngồi của mình. Dân chủ chỉ có
được qua đấu tranh. Đấu tranh mà không
phá vỡ sự ổn định xã hội. Đó là bài
toán phải giải quyết, nhưng quyết không thể
nhân danh ổn định mà kìm hãm cuộc đấu tranh
để xây dựng nền dân chủ.”
Dân chủ không phải là một ngôi nhà bằng
gạch. Dân chủ phải được xây dựng
bằng tim và bằng óc. Vì vậy cuộc đấu tranh
cho dân chủ cần có sự hợp tác gắn bó giữa
người dân và giới trí thức. Nghĩ về
giới trí thức, Lê Hiếu Đằng viết:
“ Nhân tố quan trọng
nhất trong việc hình thành xã hội dân sự là vai trò
đầu tàu của trí thức. Phan Châu Trinh đã nói
đến nhiệm vụ “Chấn dân khí” của trí
thức. Bao giờ cũng vậy, người trí thức
là người đặt lại nhiều cơ bản
của xã hội. Người
trí thức là người vạch đường cho xã
hội tiến lên. Vì thế bây giờ, người trí
thức không thể thụ động ngồi chờ, mà
phải chủ động tiến lên và hành động cho
nền dân chủ.”
Bài viết này đã ghi lại
nguyên văn và chi tiết
hầu hết những phát biểu của Nguyễn
Đăng Trừng và Lê Hiếu Đằng về hiện
tình Việt Nam và giải pháp thích nghi dành cho hiện tình
vừa kể. Sự trích dẫn như vậy có chủ ý
phản ánh trọn vẹn sự thực rằng: Nếu
Nguyễn Đăng Trừng phát pháo đòi hỏi dân
chủ hóa trong sinh hoạt kinh tế tại Việt Nam thì
Lê Hiếu Đằng tiến xa hơn bằng cách kêu
gọi mọi người Việt Nam, mọi thành phần
Việt Nam hãy dũng cảm đứng lên
đấu-tranh-triệt-để-và-toàn-diện cho một
Việt Nam dân chủ. Những đòi hỏi và kêu gọi
vừa kể bao gồm các nhận định chính xác,
không khoan nhượng nhưng chừng mực, kèm theo
đó là phần phương pháp luận khả thi. Hơn
thế nữa, nhằm tạo khí thế cho phương
pháp luận, Lê Hiếu Đằng hiên ngang hạ bút:
“Toàn dân không thể thụ
động ngồi chờ chính quyền tự thay
đổi…. Không có người cai trị nào tự nguyện
từ bỏ quyền lực, ghế ngồi của mình.
Dân chủ chỉ có được qua đấu tranh!”
(Dân chủ là giải pháp cho các vấn đề của
đất nước. Lê Hiếu Đằng)
Tuy nhiên, muốn đấu
tranh người dân phải “không sợ”. Lê Hiếu
Đằng khẳng định không do dự:
“Mà tại sao chúng ta phải
sợ? Những người phải sợ là những
người đi ngược lại lợi ích của
đất nước, của nhân dân. Chắc chắn
họ sẽ bị nhân dân chối bỏ.” (LHĐ)
Câu chuyện ba lần biệt
ly của ba cựu học sinh Phan Châu Trinh-Đà Nẵng so
chiếu với những nổ lực đấu tranh cho
dân chủ của Nguyễn Đăng Trừng và Lê
Hiếu Đằng ngày nay đã nêu bật chân lý rằng:
dầu trôi dạt vào nhiều môi trường chính trị
khác nhau, ba chúng tôi vẫn ấp ủ trong lòng lời
dạy “Chấn Dân Khí” của nhà yêu nước Phan Châu
Trinh. Dân khí là khí phách làm dân. Khí
phách kia không cho phép người dân quì gối cúi đầu
trước cảnh đất nước bị tàn phá
bởi ngoại xâm Bắc Phương với sự tán
trợ của nhà đương quyền. Khí phách kia ngày
đêm hối thúc toàn dân hãy đứng dậy… Và Nguyễn
Đăng Trừng – Lê Hiếu Đằng đã
đứng dậy… Và ba chúng tôi đã gặp lại nhau.
Gặp lại ở đây không có nghĩa là Trừng và
Đằng theo tôi hay ngược lại. Gặp lại
ở đây chỉ có nghĩa là: Trong hiện tình của đất nước,
người Việt Nam không có chọn lựa nào khác hơn
là hãy cùng nhau đi chung một con đường. Con
đường của khí phách làm người Việt Nam.
Con đường của tự do dân chủ. Tự do dân
chủ là xu thế chung của lịch sử loài
người. Đó là công lý vĩnh hằng./.
ĐỖ
THÁI NHIÊN
Ghi
chú: Những dòng chữ in
nghiêng trong bài là nguyên văn những phát biểu của Nguyễn
Đăng Trừng – Lê Hiếu Đằng.