ĐẠO PHẬT
VÀ KHẢ NĂNG GIẢI TRỪ XUNG
ĐỘT
Hãng tin PTI: Ngày
3/9/2015, tại thủ đô New Deli, Viện Nghiên Cứu Quốc Tế VIF (Vivekananda International Foundation) đã tổ chức một hội
nghị mang chủ đề “ Vận dụng tư tưởng Phật Giáo trong
việc giải trừ các loại xung đột ”. Trên
diễn đàn của hội nghị vừa kể, Thủ Tướng Ấn Độ NARENDRA MODI đưa ra nhận định rằng: Cơ chế xã hội quốc tế ngày càng tỏ ra
yếu kém trong việc giải quyết vô số hồ sơ mâu thuẫn của thế giới. Do
đó không có gì ngạc nhiên khi loài người đang quan tâm tới tư tưởng của đạo
Phật và kỳ vọng ở tư tưởng này như một chìa khóa vi diệu của quyết tâm loại
bỏ xung đột.
Tại sao tư tưởng của Đạo
Phật lai được ngưỡng mộ như là thần dược của hòa bình ? Vấn đề tiên quyết
của hòa bình phải là cảm thông và đồng thuận. Thảo luận là cửa ngõ đầu tiên
dẫn tới hòa bình.
Đời người là một thảo luận
triền miên xoay quanh ba câu hỏi trọng tâm:
1) Trước khi ra đời, Bạn ở đâu?
2) Tại nơi dương thế này, Bạn nên sống
như thế nào để có được đời sống hạnh phúc ?
3) Sau khi từ trần, Bạn đi đâu ?
Đối với câu hỏi số (1) và
(3):
Con người thảo luân với nhau bằng lý luận siêu hình. Lý luận siêu hình đặt
trên căn bản “đức tin”. Đức
tin đòi hỏi con người không
thấy mà tin. Thế giới loài người có vô số đức tin khác nhau. Vì vậy,
con người không thể dùng đức tin cá nhân, tức là dùng lý luận siêu hình để
thuyết phục toàn bộ xã hội đạt đến một đồng thuận chung nào đó.
Đối với câu hỏi số (2): Sống
như thế nào là sống hạnh phúc? Sống hạnh phúc tức là sống không xung đột từ
trong gia đình ra đến ngoài xã hội. Do đó, vấn đề “xây dựng một đời sống
không xung đột” cần phải có sự đồng thuận của toàn xã hôi. Muốn vậy, con
người không thể không thảo luận với nhau bằng phép lý luân có tính thuyết
phục cao độ. Phép lý luận kia chính là lý luận biện chứng. Lý luận biện
chứng đòi hỏi mọi lời lẽ phát biểu đều phải được chứng thực bằng những sự
kiện có thật trong đời sống. Thực tại của đời sống là chuẩn mực duy nhất
cho công lý. Chỉ có công lý mới có khả năng thuyết phục con người đi đến
đồng thuận trong mọi tình huống của xã hội. Đó là lý do giải thích tại sao
lý luận biện chứng có tính thuyết phục muôn người, muôn thời và muôn nơi.
Trở lại với câu nói của
Thủ Tướng Ấn Độ, ông Narendra Modi, nói rằng: Không có gì ngạc nhiên khi
loài người đang quan tâm tới tư tưởng của Đạo Phật và kỳ vọng ở tư tưởng này như một
chìa khóa vi diệu của quyết tâm loại bỏ xung đột. Phải chăng câu nói của
thủ tướng Modi mang ngụ ý: Trong Phật Pháp có biện chứng?
Phật Pháp và lý luận biện chứng.
Để cho ý niệm lý luận biện chứng được cụ thể và dễ hiểu, chúng
ta hãy suy nghĩ về một
tỷ dụ luận lấy bệnh lao làm đối tượng khảo cứu. Cuộc khảo cứu này được
trình bày theo ba bước lý luận:
Một là khám
phá và xác định vi trùng Koch là nguyên nhân của bệnh lao. Xác định vừa kể chính là sự
nêu bật: bản thể luận của
bệnh lao.
Hai
là nghiên cứu để biết được đời sống của
vi trùng Koch, nó phát triển và hủy diệt trong những điều kiện nào của môi
sinh. Nắm được qui luật sống
và chết của vi trùng Koch tức là loài người có được nhận
thức luận về bệnh lao.
Ba
là sau khi có được nhận thức
luận về bệnh lao, giới y học mới điều chế thuốc trị lao đồng thời hoạch
định chương trình trị bệnh và dưỡng bệnh dành cho các loại bệnh nhân. Tất
cả những công việc vừa kể được gọi là phương
pháp luận đối với bệnh
lao.
Ba khối lý luận kể trên
vừa là hình thức vừa là nội dung của lý luận biện chứng. Nội dung của phép biện chứng bao
giờ cũng là sự khẳng định mạnh mẽ rằng: Thực tại đời sống phải là chuẩn mực
duy nhất của công lý.
Từ ý niệm về lý luận biện
chứng như đã trình bày ở trên, chúng ta hãy tìm hiểu xem: có hay không phép
biện chứng trong Phật Pháp ?
Có thể nói được rằng
bó-hoa-tư-tưởng tiên khởi và nền tảng của Phật Pháp chính là Tứ Diệu Đế . Từ
“Bốn Chân Lý Cao Cả”này , Phật Pháp trình bày tư tưởng của Đấng Như Lai qua
ba công đoạn:
Công đoạn một.Diệu Đế
thứ Nhất. Khổ đế. Đau khổ là chân lý.
Khổ Đế:
Đời là bể khổ. Sinh, lão, bệnh, tử là khổ.
Ước mơ bất thành là khổ. Mâu thuẫn dẫn đến xung đột là khổ… Đếm từ khổ nhỏ
cho tới khổ lớn, có đến tám vạn bốn ngàn khổ. Khổ là nội dung trọng tâm của
đời sống. Điều này hàm ý: khổ là bản thể luận của đời sống.
Công đoạn hai. Diệu Đế
thứ hai và Diệu Đế thứ ba. Tập đế và Diệt đế.
Tập Đế:
Nguyên nhân của khổ là vô
minh. Đời sống có vô số
vô minh. Mỗi vô minh lại có vô số mức độ. Những vô số vừa kể tập họp lại
sản sinh ra tám vạn bốn ngàn khổ. Tập họp viết tắt là tập. Như vậy, Tập Đế là nhân của khổ.
Diệt Đế:
Bản năng sinh tồn hối thúc
con người tích cực tìm
phương cách diệt khổ. Ở đâu có khổ, ở đó có nhu cầu diệt khổ. Chân lý diệt
khổ gọi là Diệt Đế. Diệt Đế là quả của khổ.
Tập Đế và Diệt Đế là
hai chân lý nói lên LUẬT NHÂN QUẢ trong biển khổ. Nắm được quy luật sinh và
diệt của khổ tức là con người có được nhận thức luận về khổ.
Công đoạn ba. Diệu đế thứ tư. Đạo đế.
Đạo Đế:
Khổ Đế xác định khổ là bản
thể của đời sống. Tập Đế và Diệt Đế nêu bật qui luật nhân quả của khổ. Theo
mạch suy nghĩ, con người không thể không đặt câu hỏi: làm thế nào diệt khổ
? Câu trả lời nằm ở Đạo Đế. Đạo Đế là
con đường hướng dẫn loài người những phương pháp diệt khổ. Những phương
pháp kia được trình bày trong 37 Phẩm Trợ Đạo, quan trọng hàng đầu là Bát
Chánh Đạo.
Diễn tả Tứ Diệu Đế theo ba
công đoạn của biện chứng pháp người cầm bút có mục đích chứng minh tính
biện chứng của Tứ Diệu Đế . Trong thực tế, bốn chân lý của Tứ Diệu Đế thường hằng quấn quyện vào nhau.
Từ một Diệu Đế, con người có thể nhìn ra ba Diệu Đế còn lại. Nhờ vào tính
thống nhất vừa kể, Biện Chứng Pháp Tứ Diệu Đế có hai đặc điểm:
Thứ nhất là Tứ Diệu Đế bao giờ cũng gắn bó chặt chẽ
với thực tại đời sống. Thực vây, muốn diệt khổ con người không thể không
sống với khổ, bám sát lấy khổ, suy nghĩ về mọi ngọn ngành, ngõ ngách của
khổ. Từ hiểu biết chi li về khổ, con người sẽ là người bạn tự nhiên và thân
thiết của Tập, Diệt và Đạo. Khổ chính là thực tại của đời người.
Thứ hai là phương pháp
hướng dẫn diệt khổ của Đạo Đế bao gồm nhiều điều khoản khác nhau, nhưng
nhìn một cách chung nhất, Đạo Đế đã nêu bật hai loại điều khoản rõ rệt: Một
là những điều nên làm. Hai là những điều không nên làm. Hai ý niệm nên làm
và không nên làm kia đan dệt vào nhau tạo ra những qui luật phân biệt đúng
và sai, lấy thực tại đời sống làm chuẩn mực duy nhất cho công lý.
Đạo Đế là nơi chất
chứa những qui luật vừa giúp loài người đi đúng hướng vừa báo động cho loài
người về những tình huống lạc đường. Môt khi loài người, nhờ sự dẫn đao của
Đạo Đế , đồng ý với nhau về sự thể đúng hướng hay lạc lối trên mỗi chặng
đường đời tức là con người đã được
dẫn đạo bởi Ánh Đạo Vàng trong nỗ lực giải trừ khác biệt ý kiến, giải trừ
xung đột. Đây là lý do giải thích tại sao ngày 3/9/2015, tại New Deli, Thủ
Tướng Ấn Độ, NARENDRA MODI, đưa ra nhận định rằng: Không có gì ngạc
nhiên khi loài người đang quan tâm tới tư tưởng của đạo Phật và kỳ vọng ở
tư tưởng này như một chìa khóa vi diệu của quyết tâm loại bỏ xung đột.
Bài viết này xin được kết
thúc với ý nghĩ rằng: lực sáng của Ánh Đạo Vàng cao và rộng đến độ người
viết bài này tuy chỉ hiểu Phật Pháp ở trình độ nhập môn nhưng vẫn nhận ra
tác dụng mang lại hòa bình cho nhân loại của Ánh Đạo Vàng. Vì vậy phàm là
con người, không phân biệt tôn giáo hay chủng tộc, tất cả chúng ta đều có
quyền và có nghĩa vụ trân trọng tri ân Đấng Như Lai.
Hãy tri ân Đấng Như Lai
bằng cách: học các lớp Phật Pháp (VĂN), suy gẩm Phật Pháp đến độ biến Phật
Pháp thành ý nghĩ và ngôn từ riêng của mỗi người(TƯ) và sau cùng mang Phật
Pháp đi vào đời sống cụ thể của xã hội(TU) .
Riêng đối với Phật Tử của
GHPGVNTN kính mong Quý vị hãy tri ân Đấng Như Lai bằng cách phô diễn khả
năng giải trừ xung đột của Đạo Phật thông qua kim chỉ nam Lục Hòa
Phật tử hòa với Phật Tử
Phật tử hòa với Tăng Ni
Tăng
Ni hòa với nhau
Có như vậy Pháp nạn và
Quốc nạn trên Quê Mẹ Việt Nam mới nhanh
chóng
được giải trừ.
Kính
cẩn phổ biến lời cầu mong.
Đỗ
Thái Nhiên
|