ĐÀ NẴNG VANG BÓNG MỘT THỜI
Nguyễn Quý Đại
Từ thế kỷ 18 thành
phố Đà Nẵng thay thế Hội An giữ vai trò quan
trọng, là cửa ngõ giao thông về ngoại thương,
phát triển kinh tế của miền Trung. Những
thương thuyền ngoại quốc từ các
nước Âu Châu, Mỹ hay các quốc gia Á Châu như Trung
Hoa, Nhật, Ấn Độ, Macau, Singapore, Manila..từng
lui tới cảng Đà Nẵng qua nhiều giai
đoạn khác nhau. Về địa danh Đà Nẵng theo
tài liệu lịch sử có nhiều danh xưng như: Hàn
Cảng, Hiện Cảng… nhưng người ta
thường gọi là: Hàn, Tourane, Đà Nẵng
Từ
năm 1817 thực dân Pháp từ bỏ ban giao bằng ngôn
ngữ, thay thế bằng vũ lực là tàu đồng,
súng đại bác với đoàn quân viễn chinh thiện
chiến. Năm 1847 vì nhu cầu bành trướng thế
lực ở Viễn Đông, tìm thị trường tiêu
thụ và khai thác vật liệu rẻ. Việt Nam có bông
vải, lụa, đường, gạo, café, cao su, quế
gỗ quý…Những quốc gia ở Á Châu như: Ấn
Độ, Trung Hoa, Mã Lai, Phi
Luật Tân đều bị các nước Tây phương
xâm lăng. (triều đình Việt Nam thi hành chính sách
bế môn tỏa cảng cấm đạo, tình hình trong nước
không ổn định, giặc giã nổi lên khắp nơi,
thêm nạn giết giáo sĩ truyền giáo là một cái
cớ để Pháp xâm lăng). Ngoại trừ Thái Lan và
Nhật Bản còn độc lập. Thái Lan ký hiệp ước
thương mại dễ dàng với Anh năm 1826 và Hoa
Kỳ năm 1833, với Pháp 1856,
khôn khéo ngoại giao với người Tây phương
tránh được tai họa xâm lăng, Nhật Bản
từ năm 1868 mở đầu công cuộc Minh Trị
Duy Tân (Meiji Ishin) Cuộc cải cách nầy đã tạo nên
một thời đại mới cho nước Nhật.
Minh Trị Thiên Hoàng (Mutsohito) chủ trương canh tân
đất nước, theo lối giáo dục, thương
mại của Tây phương,
Nhật Bản trở thành quốc gia quân chủ
lập hiến giàu mạnh
Tóm lược những điểm chính trong
biến cố lịch sử (1859-1945)
Đà
Nẵng có vị trí chiến lược quan trọng,
nhiều lần tàu chiến Pháp vào Đà Nẵng thử
sức với quân VN, đại tá Lapierre cho tàu Gloire
bắn phá ngày 15.4.1847, ngày 26.09.1856 Lelieur cho tàu Catinat bắn
phá các pháo đài bảo vệ Đà Nẵng. Tiếp theo
chính sách sai lầm của vua Tự Đức với
thảm kịch xử chém Giám mục Maria Diaz Sanjunjo
người Tây Ban Nha ngày 20.7.1857. Nên Pháp lôi kéo quân Tây Ban Nha
tham chiến tại Việt Nam.
Liên quân
Pháp-Tây Ban Nha vào Sơn Trà mở màn cho cuộc chiến xâm
lược Việt Nam, giai đoạn tấn công mở
màn từ 01.09.1858 đến năm 1959 Pháp và Tây Ban Nha
chiếm vùng đất hữu ngạn sông Hàn, khống
chế vịnh Đà Nẵng và sông Hàn được 1
năm sáu tháng hai mươi hai ngày (01.09.1959 đến
23.03.1960) Trong thời gian đánh Đà Nẵng, Pháp chia quân
vào Nam từ 10.02.1859 đánh lấy thành Gia Định. Sau
khi chiếm thắng Gia Định, De Genouilly trở ra Đà Nẵng ngày 20.4.1958,
những trận đánh ác liệt xảy ra, đô
đốc Genouilly bị bệnh nên phó đề
đốc Page lên thay thế ngày 1.11.1859. Bộ Hải quân
và thuộc địa Pháp ra lệnh Page tái chiếm Sài Gòn,
qua những lần thương thuyết với triều
đình Huế không thành công. Page tự động công
bố Sài Gòn là hải cảng thương mại tự do
ngày 22.2.1860. Vì bận tham chiến với Anh ở Trung Hoa.
Page ra lệnh ngày 23.3.1860 rút toàn bộ quân khỏi Đà
Nẵng vào Sài Gòn cố thủ, Page đưa quân sang
mặt trận bên Trung Hoa. Sau khi giải quyết xong ở
Tàu, Pháp tiếp tục quyết tâm xâm lăng Việt Nam,
trở lại Gia Định ngày 07.2.1861 chiếm Ba
Tỉnh Miền Đông Nam Kỳ. Ngày 25.2.1861 đánh đồn
Kỳ Hòa, thành bị vỡ, Nguyễn
Tri Phương bị thương, tán lý Nguyễn Duy
tử trận, Gia Định bị chiếm đóng, liên quân
Pháp Tây Ban Nha chiếm Mỹ Tho, Định Tường,
Biên Hoà, Vĩnh Long. Ngày 11.4.1861 phó đề đốc
Léonard Chaener ra nghị định xây dựng thành phố
Sài gòn trên vùng đất rộng 2.500 ha. Sài Gòn được
gọi là (la perle de l’ Extrême Orient).
Những cuộc nội chiến
ở Bắc kỳ càng ngày thêm phức tạp, phó
đề đốc Bonard gởi chiến thuyền ra
Đà Nẵng uy hiếp triều đình Huế, trước
tình hình rối ren như vậy phải trên bàn thương
thuyết, bắt đầu ngày 28.5.1862 các quan đại
diện cho triều đình là Phan Thanh Giản, Lâm Duy
Hiệp đến Sài Gòn và Louis Bonard đại diện
Pháp cùng ký hòa ước Nhâm Tuất ngày 05.06.1862. (gồm 11
điều khoản) Việt Nam chịu nhiều thiệt
hại, dù trong có điều trả lại Vĩnh Long. Sau
Hiệp ước Nhâm Tuất triều đình Huế
muốn chuộc lại 3 tỉnh miền Đông Nam
Kỳ, nên cử phái đoàn Phan Thanh Giản, Phạm Phú
Thứ, Ngụy Khắc Đản đến Paris 13.9.1863.
Nhưng chuyến đi vận động ngoại giao
của phái đoàn Việt Nam hoàn toàn thất bại, trước
tham vọng chiếm Việt Nam làm thuộc địa.
Chính phủ Pháp bổ nhiệm phó
đề đốc Bonard làm tư lệnh toàn quyền
hành chánh và quân sự. Ngày 15.06.1867 De la Grandière chỉ huy
đoàn quân 1200 nguời, 400 lính tập với tàu chiến
pháo hạm từ sông Sài Gòn đến chiếm Mỹ Tho,
Vĩnh Long, An Giang và Hà Tiên. Sau khi mất ba tỉnh miền
Tây, Phan Thanh Giản
(1796-1867) tuyệt thực uống thuốc độc
tự tử ngày 05.7.1867
Pháp đánh
Hà Nội, ngày 20.01.1873 đại uý Francìs Garnier tấn công
thành Hà Nội, con trai Phò mã
Nguyễn Lâm tử thương, Nguyễn Tri Phương
(1800-1873) bị thương, ông nhịn đói chịu
đau từ trần 20.02.1873. Pháp tiếp tục đánh
chiếm phủ Hoài Đức, Gia Lâm, Hưng Yên, Phủ
Lý, Hải Dương, Ninh Bình, Nam Định. Một tháng
sau, F. Garnier bị giết
(chặt đầu) ở Cầu Giấy. Trong thời gian
nầy đại diện phái đoàn Huế Nguyễn
Văn Tường và Philastre cùng ký thỏa ước
đầu tiên ngày 05.01.1874 Pháp phải trả lại Ninh Bình, Nam Định,
Đến ngày 06.02.1874, Nguyễn
Văn Tường và Philastre ký thỏa ước thứ
2, nhiều khoản cho quân Pháp đồn trú ở Hải
Phòng đặt một trú sứ Pháp với quân hộ
vệ ở Hà Nội. Vua Tự Đức lo ngại các thỏa
ước đã ký, nhưng vẫn để Nguyễn
Văn Tường vào Sài Gòn cùng Lê Tuấn bàn chuyện ký
hoà ước mới.
Hoà ước
Giáp Tuất 15.03.1874 gồm có 22 điều khoản, Hoà ước
ký xong chánh sứ Lê Tuấn từ trần 17.03.1874,
Nguyễn Văn Tường về Huế. Dupré bàn giao
chức thống đốc cho phó đề đốc
Krantz, về Pháp 16.03.1874
Pháp đánh
Bắc Kỳ lần thứ 2 lấy cớ khai thông sông
Hồng gặp khó khăn. Đại tá Henri Rivière rời
Sài Gòn với đoàn quân 500 người và tàu chiến ngày
26.03.1882 đến Hải
Phòng ngày 02.4.1874 và hôm sau tới Hà Nội. Tổng
đốc Hoàng Diệu cử tuần phủ Nguyễn
Hữu Xứng đến yều cầu Henri R. cho biết
lý do đến Hà Nội. Ngày 04.04 Henri R. đến gặp
Hoàng Diệu cho biết đến bảo vệ kiều
dân Pháp và yêu cầu Hoàng Diệu bỏ các công sự phòng
thủ. Hoàng Diệu không thuận, sáng ngày 25.04 .1882 Henri R.
dàn quân trước thành gởi tối hậu thư
buộc Hoàng Diệu giao thành đầu hàng trước 8
giờ sáng. Hoàng Diệu quyết tử chiến, nhưng
không thể giữ thành được, để tránh
thiệt hại ông ra lệnh binh sĩ rút lui, Hoàng Diệu
(1828-1882) vào văn miếu viết tờ di biểu gởi
về triều đình và thắt cổ tự tử.
Triều đình cử Trần Đình Túc tới Hà Nội
ngày 10.05.1882 Henri R. tuyên bố trả thành Hà Nội hai bên
cùng giải quyết vấn đề địa phương.
Giai đoạn nầy Nhà Thanh và Pháp muốn chia hai Bắc
Kỳ, Trung Hoa điều quân qua Việt Nam vì mưu
lợi, trong lúc Pháp muốn chiến trọn Bắc Kỳ.
Nhưng ngày 10.12.1882 tại Thiên Tân, Bourée và Lý Hồng Chương
tạm ước về Bắc Kỳ theo đó Trung Hoa
chiếm phía bắc sông Hồng,
Pháp thuộc về phiá nam Sông Hồng. Vì quyền
lợi về hầm và tài nguyên Pháp muốn
độc quyền chiếm đóng cả Bắc Kỳ,
sau đó xoá bỏ tạm ước Thiên Tân ký với Tàu.
Cuối
năm 1882 Quốc hội Pháp đồng ý tăng viện
trợ cho Henri Revière 750 quân. Henri R. rời Hà Nội 23.3.1883
đến thành Nam Định 25.3. yêu cầu tổng đốc
đầu hàng nhưng tổng đốc Võ Trọng Bình
không trả lời, ngày 27.3 quân pháp tấn công chiếm
thành, giao cho thiếu tá P.Bandens trấn giữ rồi rút
quân về Hà Nội. Ngày 19.05 1883 Henri R. hành quân ngoại ô Hà
Nội đang bị quân Việt Nam và cờ Đen bao vây.
Henri R. chỉ huy vuợt qua khu Cầu Giấy bị
bắn chết
Thực dân
Pháp tiếp tục đánh chiếm các tỉnh Bắc
Kỳ chuẩn bị đánh kinh thành Huế, phó đề
đốc Courbet được lệnh đánh Thuận
Hoá ngày 11.8.1883 của bộ Hải quân và Thuộc
địa. Pháp đánh Thuận An, ngày 20.8.1883 quân Việt
phải rút lui, ngày 21.8 triều đình cử quan thượng
bạc Nguyễn Trọng Hợp đến Thuận An
đề nghị đình chiến, cuối cùng phái đoàn
Việt Nam phải ký hòa ước Quý Mùi 25.8.1883, sau đó hoà ước Giáp Thân, ngày 06.06.1884 thực dân Pháp đặt nền
bảo hộ tại Việt Nam. Từ đó là những
trang sử đau buồn cho Việt Nam. Dân tộc Việt
Nam luôn tranh đấu qua nhiều phòng trào đánh Tây,
muốn thoát khỏi vòng nô lệ nên máu xương của
dân quân tiếp tục đổ ra trên dòng sông lịch
sử, cho đến ngày dành lại độc lập
năm 1945
Đà
Nẵng là địa danh góp mặt với đầy
đủ vẻ bi hùng trong lịch sử, từ
thương mại đến ngoại giao, đã biến
thành chiến trường đầu tiên máu lửa. Đà
Nẵng bị 62 năm làm nhượng địa cho
thực dân Pháp. Ngày 27 tháng 8
năm Mậu Tý, tức ngày 01-10-1888, vua Đồng Khánh ký
đạo dụ nhượng hẳn cho Pháp quyền
sở hữu hoàn toàn thành phố Hà Nội, thành phố
Hải Phòng và khu Đà Nẵng. Theo đạo dụ này,
khu Đà Nẵng gồm 5 xã cắt ra từ huyện Hòa
Vang: Hải Châu, Phước Ninh, Thạch Thang, Nam
Dương, Nại Hiên Tây. Dụ này được Toàn quyền
Đông Dương chuẩn y bằng Nghị định
ngày 2-10-1888. Thành phố Đà Nẵng lúc bấy giờ có
diện tích 10.000ha (tương đương với 20.000
mẫu ta). Nhượng địa Đà Nẵng thay
đổi theo từng thời gian đã trở thành
một thành phố theo mô hình Tây phương, lấy thương
mại làm nguồn sống và phát triển, đứng
đầu thành phố là Đốc Lý (thị trưởng)
có Hội Đồng Thị Xã.
Năm 1902 Hội An vẫn còn là trung tâm thương
mại quan trọng, Pháp cho làm con đường sắt
kiểu Deceauvillle, được
gọi là Tramway de l‘ilôt de
l’Observatoire à Faifoo) nối liền Đà Nẵng Hội An
hoạt động tới năm 1916 thì bị dẹp bỏ. Nhiều công
ty lớn của Pháp đến Đà Nẵng đầu tư
phát triển mạnh như: Messageries Maritmes (hàng hải),
hãng Chargeurs- Réunis, Sica (hãng rượu), BGI (hãng bia) Esso
(Xăng dầu), Eiffel.(cầu đường)… v v. Đông
Dương Ngân Hàng (Banque de l‘ Indochine); Pháp Hoa Ngân Hàng (Banque
Franco-Chinois), Ngân hàng Nông Tín Bình Dân (Banque de Crédit Populaire
Agricole), hệ thống khách sạn, nhà máy, bưu
điện. Y tế. Cảng Đà Nẵng mở rộng
đào vét sâu hơn, nhiều thương thuyền
ngọai quốc có trọng tải lớn cập bến
dễ dàng. Tuy nhiên trước năm 1922 ở Đà Nẵng còn dùng đèn
khí đá Carbure, đèn manchon, đèn treo Hoa kỳ
đốt bằng dầu lửa. Đến năm 1923 Cty
SIPEA (Société Industrielle pour les eaux et L‘ Electricité en Asie) trúng
thầu khai thác về điện lực đem lại ánh
sáng văn minh đầu tiên về điện cho Đà
Nẵng. Hệ thống cung cấp nước máy chưa
thực hiện, nên phải dùng giếng bơm hay giếng
đào
Từ năm 1927 có hãng xe đò của người
Việt ra đời cạnh tranh với hãng xe STACA của
Pháp. Vì nhu cầu khai thác kinh tế tại Đà Nẵng,
Chính quyền Đông Dương cho mở hải cảng
và đường hỏa xa
năm 1905 có GA chính đường Lagrée (Nguyễn Hoàng ngày nay) vì nhu cầu cho việc
chuyển hàng hoá nên Phòng Thương mại làm thêm đường rầy
tới bờ sông Hàn, nên người ta thường
gọi GA LỚN và GA CHỢ Hàn. Dân số Đà Nẵng
năm 1936 khoảng 25.000 người), người Hoa
cũng đến buôn bán kinh doanh thành các bang: Quảng
Đông, Phúc Kiến, Triều Châu, Hải Nam và Hẹ
Sau thế chiến
thứ II. 1939-1945 lịch sử Việt Nam đã bị
ảnh hưởng
Nhật đảo chánh Pháp
ngày 09.03.1945 tại Đông Dương, Đại sứ
Matsumoto Shunichi tuyên bố trao trả độc lập cho VN (?) „châu Á trả về cho người
châu Á“ Ngày 11 tháng 3 năm
1945, vua Bảo Đại tuyên bố độc lập,
chế độ bảo hộ và thuộc điạ
của Pháp cáo chung. Hòa ước Giáp Thân ký ngày 06.06.1884 dưới
thời vua Kiến Phúc (trị vì 1883-1884) vô giá trị. Ngày
17.04.1945 thành lập Chính phủ Trần Trọng Kim
Ngày 20.07.1945 toàn quyền Nhật Tsuchihasshi long
trọng trao trả các thành phố nhượng địa
mà họ đã chiếm lại của người Pháp,
từ đó danh từ Đà Nẵng chính thức thay
thế tên gọi Tourane dưới thời thuộc
điạ
Ngày 06.8. và 09.8.1945 Hoa Kỳ thả hai quả bom nguyên tử xuống Hiroshima và Nagasaki, Nhật hoàng tuyên
bố đầu hàng Đồng Minh ngày 14.8.1945.
Ngày 25.08.1945 vua Bảo Đại thoái vị, kết thúc triều
đại nhà Nguyễn trị vì qua 143 năm (1802- 1945).
Ngày16.09.1945 quân Pháp núp bóng quân Anh
để trở lại Việt Nam
Ngày 13.03.1946 một thỏa hiệp ký
kết giữa Pháp-Hoa.Trung Hoa đồng ý để cho
Pháp thay thế trong việc giải giới quân Nhật
ở Đông Dương từ vĩ tuyến 16 trở ra
Bắc.
Ngày
27.3.1946 một lữ đoàn Thủy quân lục chiến
Pháp gồm 700 quân đổ bộ lên cảng Đà
Nẵng (1)
Ngày 19.12.1946 cuộc kháng chiến toàn
quốc bùng nổ, Đà Nẵng cũng như nhiều nơi
khác nằm trong chiến tranh mới “cuộc chiến không còn chiến tranh thuộc
địa mà là cuộc chiến giữa cộng sản và
thế giới tự do”. Đà Nẵng có một
thời gian ngắn bị đổi là Thái Phiên. Vì nhu
cầu của tình hình Việt nam và thế giới, Pháp bắt buộc phải
lựa chọn một giải pháp chính trị mới cho
Việt Nam và giải pháp đó không gì tốt hơn là
chọn cựu hoàng Bảo Đại. Cuối tháng 12.1947,
cựu hoàng đến Pháp thương thuyết.
Ngày 5.6.1948 cựu hoàng về
vịnh Hạ Long ký kết thỏa ước Hạ Long
trên tàu Duguay-Trouin, thừa
nhận VN dưới sự lãnh đạo của quốc
trưởng Bảo Đại một quốc gia
độc lập nằm trong Liên Hiệp Pháp. Sau thỏa
hiệp nầy quốc trưởng Bảo Đại sang
Paris ký thỏa ước Elysée với Tổng thống Pháp
là Vincent Auriol. Ngày 08.03.1949 Pháp thừa nhận VN là một
quốc gia. Như vậy qua thỏa ước Elysée, Pháp
đã giải kết những hoà ước trước
đây nhà Nguyễn đã ký kết với Pháp. Thời gian
Pháp đô hộ, người dân Đà Nẵng- Quảng Nam
luôn đấu tranh chống Pháp qua các phong trào Nghĩa
Hội (1885) Phong trào Duy Tân (1905) đến vụ xin xâu
chống thuế „Trung Kỳ Dân Biến“ (1908), Ủy ban
khởi nghĩa(1916) Việt Nam Quang Phục Hội Trung
Kỳ của Thái Phiên, Lâm Nhĩ, Hồ Cảnh Vinh, Phan
Thành Tài, Lê Cơ với Trần Cao Vân giúp vua Duy Tân khởi
nghĩa dù thất bại, nhưng đã làm thực dân Pháp ăn ngủ không yên
Di tích
lịch sử và văn hoá
Ngày 03.01.1950 chính phủ Pháp chính
thức trao trả Đà Nẵng thuộc về Việt
Nam. Phần lớn thế hệ chúng tôi
sinh ra trong thời điểm đó ở Đà Nẵng, đi học, ít chú ý
đến biến cố địa đanh, lịch
sử của quân dân Việt Nam chống Tây. Kiến
thức về lịch sử, địa lý rất hạn hẹp vì chỉ học những giờ Sử điạ ở trường mà thôi.
Những thập niên qua với tinh thần trở về
nguồn của đồng hương Xứ Quảng,
phát hành Đặc san xuân, hàng năm Đại hội liên
Trường, ngày giỗ cụ Phan Châu Trinh do Hội ái
hữu trường trung học PCT tổ chức, nhờ
hệ thống xa lộ thông tin (Information superhighway), tôi có cơ
hội liên lạc với các bạn một
thời Phan Châu Trinh khắp nơi trên thế giới, làm tôi hồi tưởng lại kỷ
niệm về Quảng Nam Đà Nẵng, mái
trường xưa
Thời
thuộc điạ, người Pháp không thực sự
muốn khai hoá dân tộc Việt Nam, giới hạn phát
triển các trường Trung và Đại học, trước
năm 1936 trường Quốc Học Huế chỉ
dạy hết bậc cao tiểu học (trung học
đệ nhất cấp) bằng cao tiểu còn gọi là
bằng thành chung (Diplôme d’ Etudes Primaires Supérieures). từ
năm 1936-1937 trường QH. đổi thành Khải
Định bắt đầu mở ban tú tài.
Suốt thời gian bị
nhượng địa cho
Pháp, Đà Nẵng chỉ có các trường tiểu
học dành cho Pháp gọi là École Française và hai trường cho Nam
(École des Garçons) và
Nữ (École des Jeunes Filles). Tỉnh Quảng Nam đông dân
nhất miền Trung không có trường Trung học,
những thế hệ trước phải ra học ở
Huế, Hà Nội hay Sài Gòn. (năm 1927 Pháp cho mở tú tài
bản xứ (baccalauréat local) cho đến năm 1930 được
công nhận như tú tài chính quốc (baccalauréat metropolitian).
Sau khi Đà
Nẵng được trao trả „độc lập“ do
đề nghị của chính quyền, ông Bửu Đài
thị trưởng và ông Giám đốc Nha học chánh
Trung Việt, ngày 7.8.1952 Thủ hiến Trung Việt ông Lê
Quang Thiết, ký công văn số 3214-VP-SV cho phép mở
lớp Đệ thất (lớp 6) đầu tiên, khai
giảng 15.9.1952 niên học (1952-1953) 50 học sinh tạm
thời học chung ở trường Nam tiểu học.
Niên khoá (1953-1954) số lớp tăng lên gồm 3 lớp
đệ thất và 2 lớp đệ lục, tất cả khoảng 300
học sinh
Ngày 06.05.1954
quyền tổng trưởng bộ Quốc Gia Giáo Dục
và Thanh Niên Bộ Giáo Dục ban hành nghị quyết số
95_GD-NĐ. Thành lập các trường trung học công
lập đầu tiên miền Trung như: TH Đào Duy
Từ (Đồng Hới) TH Nguyễn Hoàng (Quảng
Trị), TH Trần Quý Cáp (Hội An) TH Võ Tánh (Nha Trang) TH.Duy
Tân (Phan Rang) TH Phan Bội Châu (Phan Thiết) Phan Châu Trinh (Đà Nẵng), có
truyền thống giống như các trường Quốc
Học Huế, Chu Văn An Hà Nội, Pétrus Ký Sài Gòn.
Thành lập
trường trung học công lập đầu tiên tại
Đà Nẵng, cố giáo sư toán Bùi Tấn đã
đề nghị tên trường là một trong ba danh nhân:
Phan Châu Trinh, Trần Cao Vân, Thái Phiên và Hội Đồng
giáo sư đa số chọn là Phan Châu Trinh (niên khoá
1954-1955).. Mỗi năm số lượng lớp học
tăng, phải xây trường mới, đó là khu đất đối diện
trường Nam tiểu học, vốn là một vũng
sình lầy, nằm trong phạm vi của bốn
đoạn đường Lê Lợi, song song với Duy Tân (nay Nguyễn Chí Thanh),
đường Nguyễn Hoàng (nay là Hải Phòng), song song với
đường Thống Nhất (nay Lê Duẩn)
Ngày 19.05.1961 Bộ
trưởng Quốc gia Giáo Dục Trần Hữu
Thể ký nghị định
số 768-GD/PC/ND chính thức mở rộng lập các trường
trung học đệ nhất cấp và đệ nhị
cấp. Niên khoá 1958-1959 là năm đầu tiên
trường Phan Châu Trinh có thêm lớp đệ tam
(lớp10) gồm đủ các ban A-B-C; (A khoa học
thực nghiệm, B toán Lý, C văn chương và sinh
ngữ), học đến
lớp đệ nhị thi tú tài phần1, phải ra
Huế học tiếp thi tú tài toàn phần.
Ngày 11.9.1962,
Bộ trưởng Quốc gia giáo dục Nguyễn Quang
Trình ký nghị định số 1448-GD/PC/NĐ các
trường trung học đệ nhất cấp thành
nhị cấp trong đó có trường trung học Phan
Châu Trinh. Hiệu đoàn PCT được giáo sư
nhạc Hoàng Bích Sơn sáng tác. Năm 1966 giáo sư Đoàn
Văn Toàn dạy vẽ dựng cốt và tạc tượng cụ Phan
Châu Trinh tại số 5 Đống Đa Đà Nẵng, do
học sinh đóng góp phế liệu bằng đồng,
bà Châu Liên con gái cụ Phan và nhà văn Nguyễn Văn Xuân
góp ý sửa chữa, hoàn thành kinh phí 37.000 đồng
trả cho thợ đúc đồng. Ngày 24.3.1966 khánh thành
dựng tượng trước cột cờ sân
trường, đó cũng
là húy nhật thứ 40 cụ Phan Châu Trinh.
Trường
Phan Châu Trinh có cả nam, nữ riêng; lớp chúng tôi không có nữ sinh. Sau nầy có
trường nữ trung học Hồng Đức thì
trường PCT vắng bóng hồng, dù phượng vĩ
còn nở đỏ ở sân trường. Đà Nẵng
một thời vang bóng, hồi đầu thế kỷ do
sự phát triển của thành phố đông dân hơn.Từ
năm 1965 vì chiến tranh người
dân từ các quận mất an ninh đã về Đà
Nẵng sinh sống, làm sở Mỹ, đời sống sung túc hơn. Nhiều trường
Trung học công lập: Thanh Khê, Đông Giang, Nguyễn
Trường Tộ, Quốc Gia Nghiã Tử, Nữ trung
học Hồng Đức, Văn Hoá Quân Đội, Kỹ
thuật. Ngoài ra còn có nhiều trường trung, tiểu
học tư thục như Bồ Đề, Sao Mai, Thánh
Tâm, Phan Thanh Giản, Tây Hồ, Bán công Nguyễn Công Trứ,
Pascal, Thọ Nhơn…. Nhờ sự vận động
nhiều năm của các vị nhân sĩ Đà Nẵng,
mùa xuân năm 1974 Viện Đại Học Cộng Đồng
được thành lập (chương trình học như
của Hoa kỳ)
Trường Phan Châu Trinh không ngừng
phát triển, từ nhà trệt
những năm sau xây thêm lầu, có thư viện, phòng thí nghiệm, thính
đường sinh hoạt văn hóa, sân bóng rổ.
Trường trở nên đồ sộ, có uy tín lớn
đào tạo nhiều nhân tài hữu ích cho quốc gia và xã
hội. Tính đến ngày 29.3.1975, trường Phan Châu
Trinh có 68 lớp gồm 42 lớp đệ nhất cấp
và 26 lớp đệ nhị cấp. Giới trẻ ham
thích thể thao đều biết
sân vận động nằm bên cạnh cầu
Vồng, có từ năm
1943 “Sport-Tournaìs” sau này gọi sân vận động Chi
Lăng
Bảo tàng Chàm Đà Nẵng thành
lập từ năm 1915, dưới sự bảo trợ
của viện Viễn Đông Bác Cổ Pháp tại
Việt Nam. Kiến trúc mô phỏng theo đường nét
kiểu tháp Chàm. Trưng bày hiện vật điêu khắc
bằng đá và đất nung (có niên đại từ
thế kỷ thứ 7 đến thế kỷ thứ 15), các hiện vật khai
quật từ Quảng Bình đến Bình Định.
Đà
Nẵng tiếp xúc văn minh Tây phương đầu
tiên, những Giáo sĩ truyền đạo có nhiều cơ
hội gieo đức tin Thiên Chúa. Nhưng chỉ có một
nhà Nguyện ở thành Điện Hải, nhà thờ Phú Thượng
ở cách xa thị xã 20 km (ngã ba Hoà Khánh đi Bà Nà) xây
năm 1876 nơi đó còn có dòng tu kín Phao lô, nhà thờ Chính
tòa Đà Nẵng trên đường Độc Lập xây
năm 1923, nhà thờ
lớn duy nhất được xây dưới thời nhượng
địa. Ðến
năm 1963 khi Ðức Cố Giám mục Phêrô Maria Phạm
Ngọc Chi được Tòa Thánh bổ nhiệm về làm
Giám mục Ðà Nẵng tiên khởi (giáo phận mới thành
lập).
Làn sóng di
cư năm 1954 từ Quảng Bình vào Đà Nẵng có
những khu định cư Thanh Bồ, Đức
Lợi, Tam Tòa là giáo dân Công Giáo,
đã xây dựng thêm nhà thờ. Giáo dân luôn có bổn
phận với tổ quốc và dân tộc, trái với dư
luận: “ai theo Thiên Chúa là rước Pháp vào và theo Pháp
phản quốc..” cũng như ngày nay những nhóm
khủng bố thường phát xuất từ những người
Hồi Giáo cuồng tín, nhưng không phải tất cả
tín đồ Hồi Giáo đều là khủng bố. Phúc Âm
được rao giảng từ các Thừa sai, Giáo sĩ
người Tây phương tới Việt Nam từ
thế kỷ thứ 16, không phải thực dân Pháp mang
Thiên Chúa giáo vào Việt Nam. Những hiểu lầm oan
nghiệt cho Giáo dân làm tay sai cho Tây, nên họ phải
sống tập trung với nhau để tự bảo vệ.
Trường hợp Giáo dân ở vùng Trà Kiệu (2)
thuộc quận Duy Xuyên Quảng Nam, phải đương
đầu với phong trào Văn Thân chống Tây. Theo lý
thuyết, Đà Nẵng là
đất của Tây, nhưng đạo Phật phát
triển mạnh có nhiều chùa như :
Chùa Phổ Đà: khởi dựng
năm 1927, tổ khai sơn là Hòa thượng Thích Tôn
Thắng , chùa được trùng tu vào các năm 1937, 1945,
1983 hệ Chính tông Phật giáo nơi nầy đào tạo
nhiều tăng ni nổi tiếng, trước có tên
Phật học viện Trung phần , năm 1961 đổi
tên là Phổ Đà, điạ chỉ 332 Phan Châu Trinh.
Chùa Tam Bảo: xây từ năm
1953-1963, chùa có 5 tháp cao do thợ Quảng Nam pha màu trước
khi nung ngói, tạo ra 5 màu sắc biểu tượng
của Phật giáo. Đây là chùa theo phái Nam Tông(từ
Ấn Độ sang), trước
chùa có 2 cây bồ đề là cây con của bộ
đề Đạo tràng (nơi Thích Ca thành Phật),
Chùa có 2 tầng tháp nơi
cất giữ một phần nhỏ Xá Lợi Phật.
Toạ lạc số 327 Phan Châu Trinh
Chùa Pháp Lâm: Năm 1936 do nhóm cư
sĩ “An Nam Phật Học” thuộc
Chi Hội Đà Nãng đứng ra xây dựng, chùa được
trùng tu năm 1970 là trụ sở của tỉnh Hội
Phật Giáo. Ngoài ra còn các chùa Từ Vân, Bảo Nghiêm, Từ
Tôn và các chùa nổi tiếng ở Ngũ Hành Sơn
Hội Thánh
Tin Lành: Năm 1911 các mục sư đến từ Mỹ
là: R.A. Jaffray, Paul M. Hoster, G. liloryd Hugles mua đất và
năm 1913 xây dựng nhà Thờ bằng lá tại đường
Khải Định.
Đạo Tin Lành cũng gặp khó khăn với
chính quyền Pháp, Pháp sợ
ảnh hưởng của Mỹ đến Việt Nam(?). Lúc đầu chỉ có 20
tín đồ trong đó có 2 người thuộc hoàng
tộc: Công Tôn Nữ
Thị Hầu và Công Tôn Nữ Tú Oanh (cháu nội vua Minh
Mạng), mãi đến
năm 1922 Hội Thánh được xây lại bằng
gạch ngói, mục sư Hoàng Trọng Thừa làm Hội
trưởng đầu tiên.
Đạo Cao Đài: Năm 1956
đạo Cao Đài khánh thành Trung Hưng Bửu tòa, ra mắt Hội thánh
truyền giáo Cao Đài. Sau nầy có các thánh thất như
Trung Thành, Trung Đồng, Liên Hoa, Trung Bửu, Trung Tâm Thánh
Thất Tịnh
Trước 1975 Đà Nẵng có các
rạp Ciné Chợ Cồn (Tân Thanh), Trưng Vương, Li
Đô, Kim Châu, Kinh Đô, Kim. Ngoài ra còn có nhà hát Hòa
Bình…những quán cafe hữu tình như Lộng Ngọc,
Quỳnh Châu, Ngọc Anh. Câu lạc bộ Phượng
Hoàng, các quán bê thui ở đường Ông Ích Khiêm, Hội
Khuyến Học, Hội Việt Mỹ…Nhiều Ty, cơ sở hành chánh lớn
của vùng I. Bộ chỉ Huy Quân Đoàn I, sư Đoàn I Không quân,
bộ tư lệnh Hải Quân ở Tiên Sa, phi trường
Đà Nẵng. Bệnh viện toàn khoa, bệnh viện Duy
Tân của Quân đội. bến xe chợ Cồn
đi liên tỉnh, bến xe
Diên Hồng (công trường con gà cũ) đi Non Nước,
Sơn Trà, ở ngã năm Hoàng Diệu có bến xe “Traction?”
đi Huế. và đường xe lửa hoạt
động giới hạn giữa Huế. Đà
Nẵng chỉ có một cầu De Lattre để qua vùng
biển Mỹ Khê, ngoài ra còn có chiếc phà qua lại trên
sông Hàn.
Đà Nẵng phía Bắc giáp tỉnh
Thừa Thiên, phía Tây giáp tỉnh Quảng Nam, phía Đông là
biển Đông. Cách Hà Nội 764 km, Sài Gòn 964 km. Trước
1975 dân số khoảng nửa triệu người. Năm
2009 dân số tăng lên hơn 867.545 người, diện
tích 1.255,5 km² (trong đó có 305 km² của Hoàng Sa), mật
độ trung bình 690/ km². Biển 15.000 km². Hiện nay có 6
quận và 2 huyện Hòa Vang và Hoàng Sa. Hệ thống giáo
dục có 15 trường đại học, học viện; 17
trường cao đẳng; nhiều trường trung
học chuyên nghiệp, trung tâm dạy nghề và hơn 200
trường học phổ
thông. Có 17 bệnh viện đa khoa và chuyên khoa, 11
bệnh viện và trung tâm y tế quận huyện, 47
trạm y tế xã phường và trên 900 phòng khám chữa
bệnh tư nhân, cùng
với sự hình thành của trường Đại
học Y Dược và trường Đại học
Kỹ thuật Y tế.
Cảng Đà Nẵng sâu có 9
cầu cảng dọc theo sông Hàn, sân bay quốc tế, có
nhiều xí nghiệp lớn của các ngành dệt, sản
xuất hàng tiêu dùng, công nghệ chế biến, công
nghệ cơ khí, sản xuất vật liệu xây
dựng.. (theo tài liệu
của thành phố Đà Nẵng).
Sông Hàn dài 204 km, thơ mộng chảy qua
Đà Nẵng. Bờ biển dài khoảng 30 km cát trắng
mịn, có nhiều bãi
tắm đẹp như: Non Nước, Mỹ Khê, Tiên Sa,
Thanh Bình, Thanh Khê, Mỹ An, Xuân Thiều, Nam Ô…. Chung quanh bán
đảo Sơn Trà có nhiều san hô, Ngũ Hành Sơn cách
Đà Nẵng khoảng 7 km là
một thắng cảnh đẹp, đứng ở Non Nước
có thể nhìn thấy xa xa là cù lao Chàm.
Bãi
biển Xuân Thiều-Nam Ô nơi Mỹ đổ bộ vào Đà
Nẳng ngày 08.03.1965
của nhà
văn Võ Văn Dật ở San José sưu tầm
Đà
Nẵng nằm giữa vùng kế cận ba di sản
văn hoá thế giới: Cố đô Huế, phố
cổ Hội An và thánh địa Mỹ Sơn, chính vị
trí này đã làm nổi rõ vai trò quan trọng. Đà Nẵng
trải qua 703 năm (1306 -2009) gắn liền với các
thời kỳ lịch sử. Ngày nay về thăm Đà
Nẵng chắc chắn chúng ta phải ngỡ ngàng trước
nhiều đổi thay, những con đường
xưa, cũng như nhiều trường bị
đổi mất tên. Có thêm vài ba cái cầu bắc ngang sông
Hàn, nhiều dinh thự, khu
nghỉ mát dành cho những giai cấp mới tư bản
đỏ sau 1975. Lịch sử Đà Nẵng cùng với
lịch sử Việt Nam thay đổi. May mắn thay, tên
trường Phan Châu Trinh vẫn trường tồn
với thời gian. Tinh thần đấu tranh cho Tự Do
và Nhân quyền của cụ Phan vẫn sáng ngời với
dân tộc Việt Nam
Tài
liệu tham khảo
1/ Sau hiệp định Genève (20.7.1954) Hoa Kỳ
quyết định ủng hộ VNCH để chận
đứng làn sóng cộng sản và Trung cộng. Ngày
08.03.1965, tiểu đòan 3 thuỷ quân lục chiến
thuộc lữ đoàn 9 Hoa Kỳ đầu tiên đổ
bộ lên bãi biển Xuân Thiều (Nam Ô) thuộc xã Hoà
Hiệp, huyện Hoà Vang nay thuộc quận Liên Chiểu
Đà Nẵng, cùng ngày tiểu đoàn thứ 2
được không vận từ Nhật đến sân bay
Đà Nẵng. Sau đó hơn nửa triệu quân
Đồng Minh vào Việt Nam giúp VNCH chống cộng
sản. Cuộc chiến kéo dài gần 30 năm khoái
lửa, bom đạn tàn phá quê hương, Người
Mỹ vì quyền lợi của nước Mỹ nên
Hiệp định Paris ký ngày 07.01.1973 Hoa Kỳ rút quân khỏi
Việt Nam, bỏ mặc người bạn đồng
minh VNCH cho đến ngày bức tử 30.4.1975
Theo dư luận, tuần dương hạm Trịnh
Hòa 鄭和 Zhèng
Hé/ Cheng Ho
đến cảng Đà Nẵng từ 18
đến ngày 22.11.2008 từ đó đã có
nhiều vụ căng thẳng xảy ra trong khu
vực thềm lục địa biển Đông
Việt Nam bị ảnh hưởng, đang vào vụ cá
nam mà mấy trăm tàu tại chợ cá Thọ Quang và
cảng cá Đà Nẵng phải đậu bến vì
lệnh của Tàu Cộng cấm đánh bắt cá ba tháng
ở biển Đông? Hải quân Trung Cộng giống
như bọn cướp biển, ăn cướp cá
của ngư dân, thường gây tai nạn đe dọa
ngư dân Việt Nam
2/ Theo một số sử gia thì trước khi các linh
mục Dòng Tên do Cha Buzomi dòng Phanxicô dẫn đầu,
đến Hội An và các vùng phụ cận để chính
thức tổ chức công cuộc truyền giáo ở Ðàng
Trong (1615). Năm 1625 đạo Công Giáo được rao
giảng khắp các xứ lớn ở miền Nam...
Một điều khác là sử liệu cũng cho chúng ta
biết là nhà thờ Trà Kiệu đã có trước thời
1681 - 1682 đã được các Cha dòng Phanxicô cai quản
cho đến khoảng năm 1810 mới bàn giao lại cho
các Linh mục thừa sai Hội Truyền Giáo nước
ngoài Ba-lê (MEP) (lịch sử giáo xứ Trà Kiệu)
Lịch sử Đà Nẵng - nhà văn Võ Văn Dật (Việt Nam California 2007)
Non nước xứ Quảng - Lê Minh Quốc (nhà
xuất bản Trẻ Việt Nam 2002)
Bộ Việt Sử Đại Cương nhà văn Trần Gia Phụng NxB Non nước Toronto
Quảng Nam Trong lịch sử Trần Gia Phụng
NxB Non nước Toronto 2003
Án Tích Cộng sản Việt Nam Trần Gia Phụng NxB Non Nước
Troronto 2001
Lê Minh Quốc trong Non nước xứ
Quảng tập 3 trang 100.
Nxb ở Saigon Viet Nam năm 2002
Trích tài liệu về Đà Nẵng
Từ 10/1955 đến 29/3/1975
Chính phủ Việt Nam
Cộng hòa thành lập thị xã Đà Nẵng gồm 3
quận với 18 khu phố (tương đương
với phường).
- Quận I: gồm 9 khu
phố: Xương Bình, Phước Ninh, Thiệu Bình,
Hải Châu, Thạch Thang, Nam Dương, Hòa Thuận, Bình
Thuận, Nại Hiên.
- Quận II: gồm 10 khu phố:
Thạc Gián, Hà Khê, An Khê, Phú Lộc, Phục Đán, Chính
Trạch, Xuân Đán, Tam Tòa, Thanh Khê, Xuân Hòa.
- Quận III: gồm 9 khu phố: An
Hải, Mân Quang, Cổ Mân, Nam Thọ, Mỹ Khê,
Phước Trường, Nại Hiên Đông, Tân Thái,
Thượng Nghĩa.
31-7-1962
Chính phủ Việt Nam Cộng hòa ra
sắc lệnh 162-NV chia tỉnh Quảng Nam thành hai
tỉnh Quảng Nam và Quảng Tín. Tỉnh Quảng Nam có 9
quận, 1 thị xã, 144 xã. Tỉnh lỵ đặt
tại thị xã Hội An. Tỉnh Quảng Tín có 6
quận, 1 thị xã, 89 xã. Tỉnh lỵ đặt tại
thị xã Tam Kỳ.
Sau khi chính quyền Việt Nam Cộng
hòa chia tỉnh Quảng Nam thành hai tỉnh Quảng Nam và
Quảng Tín, chính quyền cách mạng tỉnh Quảng Nam
chấp hành Nghị quyết của Khu ủy V, chia
Quảng Nam thành hai tỉnh mới để tiện
việc tổ chức, chỉ đạo, đối phó
với âm mưu của địch.
Phía bắc là tỉnh Quảng Đà
gồm 5 huyện (Hòa Vang, Đại Lộc, Thống
Nhất, Điện Bàn, Duy Xuyên), thành phố Đà
Nẵng, thị xã Hội An.
Phía nam là tỉnh Quảng Nam gồm 6
huyện (Quế Sơn, Nam Tam Kỳ, Bắc Tam Kỳ,
Thăng Bình, Tiên Phước, Trà Sơn).
11-1967
Khu ủy V ra quyết định sáp
nhập tỉnh Quảng Đà và thành phố Đà Nẵng
thành Đặc khu Quảng Đà.
6-1-1973
Chính phủ Việt Nam Cộng hòa ra
nghị định giữ nguyên 3 quận như cũ,
chỉ sáp nhập 28 khu phố bên dưới cấp
quận thành 19 phường. Thị xã Đà Nẵng
được đặt dưới quyền điều
hành của Hội đồng thị xã, gồm 12 ủy
viên, do một thị trưởng đứng đầu.
- Quận I: gồm 7 phường:
Triệu Bình, Xương Bình, Thạch Thang, Hải Châu, Nam
Phước, Bình Hiên, Hòa Thuận.
- Quận II: gồm 5 phường: Chính
Gián, Thạc Gián, An Khê, Thanh Lộc Đán, Hà Tam Xuân.
- Quận III: gồm 7 phường: Nam
Thọ, Mân Quang, Mân Thái, An Hải Tây, Phước Mỹ,
Nại Nghĩa, An Hải Bắc.