ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM
Đỗ Thái Nhiên
(http://www.vietvusa.com)
Ủy Ban Thực Hiện
Tượng Đài Thuyền Nhân Việt Nam, Đại
diện bởi các vị: Nhà Thơ Thái Tú Hạp, Ca
Nhạc Sĩ Việt Dzũng, và Bác Sĩ Lê Hồng
Sơn, cho biết lúc 1 giờ trưa ngày 25/04/2009 lễ
khánh thành Đài Tưởng Niệm Thuyền Nhân Việt
Nam đã được long trọng cử hành tại Nam
California. Đài Tưởng Niệm này tọa lạc
gần góc đường Bolsa-Hoover. Nó nằm bên trong khuôn
viên của nghĩa trang Westminster (Peek Family Funeral), 7081 Bolsa
Ave., Westminster, CA 92683.
Đứng bên trong khuôn viên
vừa kể, quay lưng lại với đường
Bolsa, khách viếng tượng đài sẽ thấy
một bãi cỏ xanh và rộng. Kế đến là lư
hương đồng đen. Đàng sau lư hương
là kiến trúc trọng tâm của tượng đài.
Kiến trúc này bao gồm một hồ nước hình
quả trám, lớn bằng chiếc thuyền vượt
biên. Chung quanh hồ nước là những tảng đá
màu trắng ngà, mặt mài bằng, diện tích non một
thước vuông. Trên mỗi tảng đá, danh vị
của thuyền nhân tử nạn được ghi
bằng mực đen, nét khắc sâu và sắc. Tại
một tảng đá bên hông tượng đài, gần
trung tâm mặt đá, tình cờ tôi bắt gặp
phương danh “Tô Lai Chánh”. Anh này là bạn rất thân
của tôi tại trường Luật Saigon từ 1963.
Hồi bấy giờ, Tô Lai Chánh là Chủ Tịch Ban
Đại Diện Sinh Viên Luật Khoa Saigon. Khi nhập
ngũ, Tô Lai Chánh trở thành chánh án công tố của Tòa Án
Quân Sự Nha Trang. Giữa năm1985, Tô Lai Chánh từ
trại tù “cải tạo” về. Tôi từ khám Chí Hòa ra. Hai
chúng tôi gặp nhau tại một quán cóc bên đường
Trần quang Khải, gần Cầu Bông. Sau đó tôi mất liên lạc với Chánh. Tôi có hơn
hai thập niên đi tìm tông tích người ban họ Tô
nhưng tuyệt vô âm tín. Mãi cho tới sáng 25/04/09 tôi mới
gặp lai Tô Lai Chánh trên phiến đá này, bên hông Tượng
Đài Thuyền Nhân. Đây là tin tức ngắn nhất,
bất ngờ nhất, chính xác nhất, bàng hoàng và xoáy tim óc
nhất. Nhìn không chớp mắt vào danh vị Tô Lai Chánh, tôi
thấp thoáng thấy đôi mắt to và đen của Anh
Chủ Tịch Sinh Viên Luật Khoa Saigon vài thập niên về
trước…
Bây giờ hãy trở lại
với cấu trúc của tượng đài Thuyền Nhân.
Ở giữa hồ nước mang hình dáng chiếc
thuyền như đã nói ở trên là một tảng đá
lớn, biểu tượng cho đảo tị
nạn. Bên trên tảng đá
kia là hình tượng một gia đình gồm năm
người: bà cụ già, cặp vợ chồng trẻ và
một cháu bé khoảng dưới một tuổi. Người
phụ nữ gần ngã xấp nhưng vẫn cố
vươn mình lên cao, tay trái ôm cháu bé mắt nhắm
nghiền, tay phải đưa ra phía trước như
một cầu cứu…Cạnh đó là chiếc nón lá của
phụ nữ Việt Nam và chai sữa dành cho trẻ em
nằm lăn lóc trên mặt đất. Tiếp sau là hình
tượng người thanh niên, tóc tai rủ rượi
đang dìu bà lão đi tới…Toàn cảnh tượng
đài là bức tranh ghi nhận: ba thế hệ Việt
Nam chịu chung một tai họa. Thế hệ thứ nhất
là bà cụ mà người chồng có thể đang bị
khổ sai ở trại tù cải tạo nào đó. Thế
hệ thứ hai là cặp vợ chồng trẻ. Thế
hệ thứ ba là cháu bé với đôi mắt nghìên
trước một tương lai mịt mù mây xám…Trong ngôn
ngữ của biểu tượng: ba thế hệ là
nhiều thế hệ, là toàn bộ dòng sống của dân
tộc. Bảo là một tai họa nhưng đây là
loại tai họa có chọn lựa. Trên bước
đường vượt biên có một ngàn lẽ một
tai họa khác nhau, tai họa nào cũng khủng khiếp,
cũng vượt ra ngoài trí tưởng tượng
của loài người. Trong phạm vi của một bài
bình luận ngắn, bài viết này xin trình bày một tai
họa điển hình. Hồ sơ của tai họa này
được tìm thấy trong văn khố của cơ
quan Cao Ủy Tị Nạn của Liên Hiệp Quốc
năm 1979. Diễn tiến của sự việc
được trình bày như sau:
“Anh
Huỳnh Văn Trân, 34 tuổi, ngồi trên 1 băng ghế
gỗ ở trại tị nạn Songkhla ở một
bờ biển cực nam của Thái Lan, thuật lại câu
chuyện của mình lần thứ ba. Anh ra đi trên
một chiếc tàu gồm 62 người: đàn ông,
phụ nữ và trẻ em. Họ may mắn gặp thời
tiết và gió thuận lợi, không bị rắc rối gì
với máy tàu. Vào ngày thứ 5 trên biển, một chiếc
tàu mã lực lớn dài 15 mét đến cặp sát mạn
tàu anh. Có 12 người đàn ông trên thuyền, tất
cả đều trang bị vũ khí đầy
đủ. Trước hết, chúng ra lệnh cho hai
người trong số phụ nữ sang tàu chúng. Một
trong hai người này là vợ anh Huỳnh Văn Trân. Cô
này bị ghì chặt xuống, súng trường kê sát thái
dương, và bị ra lệnh không được kêu la. Cô
bị bọn chúng cưởng hiếp.
Bọn hải tặc sau đó nhảy qua tàu tị
nạn, cướp đi mọi thứ có giá trị,
bắn một người đàn ông còn do dự khi chúng
cướp. Sau đó chúng tăng tốc độ phóng
đi với các món của cải chiếm được,
nhưng thình lình quay ngoắt lạị. Vẫn giữ nguyên
tốc độ tối đa, chúng nhắm thẳng vào tàu
tị nạn và đâm mạnh. Chiếc tàu hải tặc
đã lập đi lập lại hành động này trong
khi nhóm người tị nạn đang hốt hoảng
ngoi ngóp giữa biển khơi. Bọn cướp biển
cố ý lái tàu cán qua vô số chiếc đầu đang
nhấp nhô, có lẽ vì không muốn để sót lại
nhân chứng nào. Khi vợ anh Trân còn đang chới với
trên mặt nước, với đứa con trai mới lên
3 đang níu chặt cổ mẹ, cả hai đã bị tàu
cán qua và chết đuối, 10 người trong số
họ sống sót, sau đó được vớt lên và
đưa tới Songkhla, Thái Lan.”
(Hết lời dẫn)
Tai họa kể trên cùng hàng
vạn tai họa khác cho thấy thuyền nhân bị
giết chết trong những tình huống vô cùng tàn ác
nhưng cũng vô cùng bi tráng. Bi tráng bởi lẽ: không
phải những người chuẩn bị vượt
biên không biết tất cả những hung hiểm trên sông,
trên biển. Thế nhưng thuyền nhân vẫn quyết
tâm vượt biên, quyết tâm bước vào con
đường chỉ có thể chọn lấy một
trong hai giải pháp : “Tự do hay là chết”. Con
người có nhiều phương cách để diễn
đạt tư tưởng. Con ngừơi có thể nói
bằng ngôn ngữ bình thường, có thể nói bằng
quả đấm, bằng tiếng thở dài, bằng cái
nhíu mày, cau mặt…Trong tất cả những kiểu nói và
cách nói kia, tiếng nói của im lặng là tiếng nói
của tận cùng lạnh lùng và quyết liệt. Im
lặng chôn dầu vượt biển, im lặng đút hối
lộ cho công an, im lặng qua mặt các toán tuần duyên
CSVN, im lặng đối mặt với hải tặc, im
lặng viết tên của chính mình trên phiến đá ở
Đài Tưởng Niệm Thuyền Nhân Việt Nam.
Tất cả các im lặng vừa diễn tả chỉ
dể nói lên một điều: Chúng tôi là con người Việt
Nam, Chúng tôi không thể sống không có tự do. Chúng tôi
sẳn sàng mang sinh mạng của mình để đổi
lấy tự do. Điều kỳ lạ là thuyền nhân
Việt Nam đi vào cõi chết nhưng vẫn nheo mắt
nhìn đời với miệng cười ngạo
nghể. Thông thường mỗi thuyền nhân
trước giờ vượt biên đều thấy
trước ba con đường: nếu vựot biên thoát
thì đương sự sẽ làm việc kiếm tiền
trợ giúp gia đình. Nếu bị bắt thì gia đình
phải đi thăm nuôi. Nếu gặp tai họa giữa
biển cả thì an giấc ngàn thu dưới đáy
biển. Chúng ta hãy nghe một thuyền- nhân- trẻ từ
giả mẹ già trước giờ vượt biên.
Từ giả rằng:
“ Một là con nuôi Má,
Hai là Má nuôi con,
Ba là con nuôi cá”
Rõ ràng lời giả từ
rất đắng cay nhưng vẫn không thiếu phần
hài hước. Chính tính hài hước trong hỏa ngục
mới diễn tả trọn vẹn niềm thống
hận của thuyền nhân. Trong niềm thống hân kia
Thuyền nhân gói ghém hai ước mơ:
Ứơc mơ một: Vựơt biên
vừa để phản kháng CSVN độc tài, phản
nhân tính vừa để tìm lại cho gia đình, cho bản
thân một đời sống đầy đủ tự
do và dân chủ. Đồng thời, giúp cho các thế hệ tương lai
được giáo dục và đào tạo thành con
người .
Ước mơ hai: từ
giả đất tạm dung, quay trở về quê cũ,
quyết tâm xây dựng lại mộtViệt Nam tự do
dân chủ. Triệt để loại bỏ mọi bùa phép
dân chủ ngụy trá của CSVN.
Thật là đau đớn,
mỗi người hai
ước mơ, hàng triệu ước mơ đã
bị vùi sâu dưới đáy biển. Với thời
gian, ước mơ của Thuyền Nhân từ lòng
biển đã vang vọng về với dương
thế làm xao xuyến hàng
triệu triệu quả tim Việt Nam. Cuối con
đường xao xuyến là Đài Tưởng Niệm
Thuyền Nhân Việt Nam. Tưởng niệm không chỉ
là hương khói với hoa tươi. Tưởng
niệm phải biểu hiện bằng quyết tâm
biến ước mơ của Thuyền Nhân thành hành
động cụ thể. Hành động cụ thể
đó chính là đào thải chế độ Hà Nội ra
khỏi vị trí cầm quyền, buộc chế
độ này phải trả lời trước công lý
về vô số tội ác tham ô, độc tài và bán
nước.
Đỗ Thái Nhiên
(
www.vietvusa.com )