LUẬN VỀ TÍNH
CHÍNH THỐNG
CỦA NHÀ CẦM
QUYỀN CSVN HIỆN NAY
Tác giả vô danh là gốc
đạo
Đỗ Thái Nhiên
Noãn bào trăm họ ấy
giềng Người
Lý Đông A
Tùy theo sự khác nhau giữa các
lãnh vực: tôn giáo, y học, võ học, văn, thi, nhạc,
họa, căn bản pháp lý của vương quyền v.v…
hai chữ “chính thống” được giải thích
bằng nhiều từ ngữ phức tạp, khi rõ ràng,
khúc chiết, khi mơ hồ giữa chính và tà. Từ đó, “chính thống” trở thành một mê
hồn trận của bàn cờ ngôn ngữ.
Nói chung
nhất: Chính là đúng, là sự thực, là công lý. Thống
là sự đòi hỏi cái chính kia phải
đựơc nhìn thấy như một sợi chỉ
xuyên suốt: xuất phát từ rễ, chạy lên thân,
tiến mãi tận ngọn. Thống bám sát lấy chính làm
cho chính không thể lạc lối vào tà, làm cho chính là
tiếng nói đanh thép rằng: “Nửa ổ bánh mì vẫn
là bánh mì. Nhưng một nửa sự
thực không phải là sự thực”. Đó
là ý nghĩa cốt lỏi của thuật ngữ chính
thống.
Bây giờ, chúng ta hãy đi tìm
lời giải cho câu hỏi: Thế nào là một chế
độ chính trị chính thống? Trên địa bàn chính trị, cái “chính”
gồm ba “chính”:
Chính (1): công lý rằng đất
nước là của toàn dân, toàn dân có quyền và có nghĩa
vụ quyết định vận mệnh của
đất nước thông qua việc tuyển
chọn và ủy nhiệm giới lãnh đạo quốc
gia để giới này điều hành việc
nước. Chính(1) là xuất phát
điểm của chính. Đây là phần rễ của chính. Phần rễ của nhà cầm quyền Hà
Nội là những cuộc bầu cử gian trá.
Bầu cử theo kiểu “đảng
cử, dân bầu, công an canh chừng”. Như vậy là không chính.
Chính (2): sau khi nhận
được sự ủy nhiệm của toàn dân
giới lãnh đạo phải thường xuyên căn
cứ vào ý dân trong mọi tác vụ tổ chức và
điều động xã hội. Yêu nước là yêu theo ý dân, yêu theo lòng dân, làm theo ý dân, làm theo lòng
dân chứ không là chạy theo ý muốn của cá nhân/tập
thể độc tài. Đây là phần thân của chính. Phần thân
của nhà cầm quyền Hà Nội nên được hình
dung như hình ảnh của một chiếc xe
đò đang chạy trên xa lộ: tài xế là đảng
CSVN, tài xế này lái xe theo mệnh lệnh của ông chủ
Trung Quốc ngồi ngay bên cạnh, chứ không theo lòng dân,
ý dân. Như
vậy là không chính.
Chính (3): trọng tâm của công
việc tổ chức và điều hành xã hội là kỷ
thuật và nghệ thuật giúp xã hội giải trừ
mọi mâu thuẩn giữa cá nhân với cá nhân, cá nhân
với tập thể, giữa các tập thể với
nhau, nhất là giũa quốc gia với các thành viên trong
cộng đồng quốc tế. Với tư cách
những người thụ ủy của toàn dân, giới
lãnh đạo quốc gia bao giờ cũng phải giải quyết các
loại mâu thuẩn vừa kể theo nguyên tắc:
Quyền lợi dân tộc là kim chỉ Nam, là đối
tượng tối cao của mọi công tác phục vụ. Đây là phần
ngọn của chính.
Phần ngọn của chế độ CSVN là sự
việc rằng: tất cả mâu thuẩn quốc nội
cũng như quốc tế đều được
đảng CSVN giải quyết theo
nguyên tắc: quyền lợi của Trung Quốc là
thượng tôn, kế đến là quyền lợi
của đảng CSVN. Như vậy là không chính.
Ba chính vừa
được diễn tả ở trên họp lại
với nhau thành thống nhất chính, gọi tắt là chính
thống.
Nội dung trung tâm của mỗi chính trong ba chính
đều là ý dân. Thế nào là ý dân? Dân tộc tính và nhân loại toàn tính thống
nhất. Vì vậy ý dân chính là ý muốn
của loài người. Lịch sử loài
người đã ghi nhận: Chế độ nô lệ
man rợ, chế độ quân chủ khắc nghiệt,
chế độ độc tài các loại: Quốc Xã
Đức, Phát Xít Nhật, Cộng Sản quốc tế , quân phiệt, tài phiệt…đều bị
lịch sử đào thải không khoan nhượng. Những
đào thải kia là sự khẳng
định dứt khoát rằng: lịch sử là lịch
sử của những đấu tranh bất tận nhằm
bảo vệ và phát triển Nhân Đạo (dòng sống
Người). Đó là tư tưởng tinh
ròng của Duy Dân Sử Quan mà cũng là Việt Tộc
Sử Quan. Dân tộc Việt cùng với
mọi dân tộc khác không thể tách rời khỏi nhân
loại, nhất là vào giai đoạn toàn cầu hóa
hiện nay.
Trong thực
tiễn của đời sống, không phải bao giờ
và ở đâu Duy Dân Sử Quan và Việt Tộc Sử Quan
cũng toàn thắng. Rất nhiều giai đoạn,
lịch sử bị vo tròn, bóp méo,
bị ép rẽ phải, rẽ trái, thậm chí bị
cưởng bức di chuyển ngược chiều. Tuy
nhiên, muốn thở theo nhịp thở của
lịch sử, muốn hiểu được những can
trường của lịch sử, Con Người hãy nhìn
vào đường dài của lịch sử. Trên con
đường bất tận với ngút ngàn gian khổ kia, lịch sử bao giờ cũng
thường hằng, âm thầm nhưng quyết liệt theo
đuổi và bám sát hướng tiến nghiêm chỉnh
của lịch sử: hướng bảo vệ và phát
triển Nhân Đạo. Đây là tâm tình
của lịch sử. Đây là hướng tiến
chính thống của lịch sử, . Đây
là Sử Hồn là Đáy Lòng của dân tộc, của nhân
loại, của nhân dân hiểu theo
nghĩa thực tiễn, cụ thể: con người
(nhân) trong xã hội (dân).
Như vậy chế độ
chính trị chính thống hiểu theo
nghĩa ba chính thống nhất và hướng tiến chính
thống của lịch sử đều lấy ý dân làm
điểm hội tụ. Nói rõ hơn: chế độ
chính trị chính thống là chế độ đưa
dẫn quốc gia di chuyển đúng với Việt
Tộc Sử Quan, đúng với hướng tiến chính
thống của lịch sử. Chân lý vừa
trình bày chỉ là lý luận chính trị. Làm thế nào
biến lý luân chính trị hữu lý kia thành hành động
sống cụ thể của sinh hoạt xã hội
? Nhà Tư Tưởng Lý Đông A đã chỉ ra
rằng: Để cho quốc gia có thể tồn tại
trong an bình và thịnh vượng trên hướng tiến
chính thống của lịch sử, chế độ chính
trị chính thống cần thực hiện chính sách
Lục Dân: 1)Phục hưng Dân Tộc.
2)Phát triển Dân Đạo. 3)Quảng
đại Dân Sinh. 4)Sáng hóa Dân Văn. 5)Chính sức Dân
Trị. 6)Trọn vẹn Dân Vực. Đi vào địa bàn
cấu trúc xã hội Lục Dân chính là kim chỉ Nam vi
diệu giúp giới kiến trúc sư xã hội hình thành
bốn lực đẩy trọng yếu làm cho quốc gia
cất cánh tiến bộ:
Lực đẩy một: Luật Pháp chính thống.
Đây là luật pháp trị ( Rule of Law). Luật này là luật của người dân, do
người dân làm ra (thông qua quốc hội chân chính).
Nó chỉ nhằm bảo vệ người
dân chống lại mọi hình thức bất công. Toàn dân, kể cả những chức quyền cao
cấp nhất, đều phải tuân phục luật
pháp. Trong khi đó luật pháp quyền (
Rule by Law)là luật do chế độ độc tài
kiểu CSVN nhào nặn ra. Nó là công cụ giúp chế
độ Hà Nội tung cánh tham ô trong
tự do và “ổn định”. Hạ cánh tham ô trong thịnh
vượng và an toàn cho mỗi
đại gia Đỏ. Luật pháp của chế
độ CSVN hiện nay là luật pháp quyền chứ
không là luật pháp trị.
Lực đẩy hai: Giáo Dục chính thống. Hệ thống giáo dục này phản đối
kiểu giáo dục nhồi sọ, giáo dục đào
tạo đảng viên cho đảng CS hoặc đào
tạo chuyên viên ngoan ngoản cho chế độ tài
phiệt các loại. Giáo dục chính thống có
mục tiêu đào tạo những con người trí
thức đích thực, trí thức có tư duy độc
lập, sáng tạo, khách quan, trên cơ sở triết
học, sử học, khoa học thống nhất. Sau cùng giáo dục chính thống là một công trình
giáo dục sinh động và toàn diện. Nó bao gồm giáo dục học đường và
giáo dục nhân quần xã hội thông qua vô số
phương tiện truyền thông khác nhau. Giao duc chính thống nhằm giúp toàn dân học và
hành chính sách Lục Dân. Có như vậy
nội lực dân tộc mới hồi sinh. Việt Nam mới thực sự độc
lập, nhất là độc lập với Tàu.
Lực đẩy ba: Kinh tế quốc dân. Đây là
guồng máy kinh tế không cho phép tư bản nhà
nước hay tư bản tư nhân lộng hành. Nó đặt trọng tâm trong nổ lực
tạo môi trường kinh tế pháp lý giúp cho mọi
người dân đều được bình đẳng
về cơ hội (equality of opportunity), nền tảng
của bình đẳng nghĩa vụ và bình đẳng
quyền lợi, trên địa bàn sinh hoạt kinh tế.
Đặc biệt kinh tế quốc dân
triệt để triệt tiêu kinh tế quốc doanh
kiểu “Kinh tế Vinashin” của nhà đương
quyền Hà Nội.
Lực đẩy bốn: Quốc phòng và ngoại giao
độc lâp nhưng liên lập. Trung
Quốc hiện nay là “tuyệt đối địch nhân”
(thuật ngữ của Lý Đông A) của dân tộc ta.
Việt Nam không thể độc lâp dưới
áp lực và sự bành trướng của Bắc Kinh
như đảng và nhà nước CSVN hiện nay đang
phải chịu. Một mình nước
ta không có khả năng giữ vửng độc lập
trước Đại Hán mới. Chỉ
có liên lập quốc tế mới có thể giúp Viêt Nam
sống bình đẳng và hiên ngang bên cạnh Trung Quốc.
Muốn có liên lập nghiêm chỉnh và chặt
chẽ chế độ cầm quyền phải có uy và
lực. Chế độ Hà Nội vừa hủy
hoại nội lực dân tộc, vừa tao rất nhiêu ô
danh trên bang giao quốc tế, vụ Vinashin là một thí
dụ điển hình cực lớn. Vả
lại làm sao Hà Nội có thể liên lập trong khi mọi
biến động của quốc gia Việt Nam
đều bị đảng CSVN tâu trình chi tiết cho Trung
Quốc?
Tóm lại có ba phương cách
để xác định một chế độ chính
trị có tính chính thống hay không:
Một là tìm hiểu phẩm chất
chính trị của chế độ chính trị từ
rễ tới thân lên ngọn.
Hai là vận dụng sử quan của Việt Tộc
để nhìn xem
chế độ chính trị có đưa đất
nước vận hành theo đúng hướng tiến chính
thống của lịch sử hay không?
Ba là khảo sát xem tính chính thống của
chế độ chính trị có hay không trên bốn
địa bàn trọng yếu của guồng máy cầm
quyền: luật pháp, giáo dục, kinh tế, ngoại
giao-quốc phòng.
Mang ba phương cách xác định tính chính
thống chính trị kể trên so chiếu với sinh
mệnh chính trị của đảng CSVN, không ai không
nhận biết chế độ Hà Nội là một
chế độ chính trị tuyệt đối phi chính thống.
Như vậy tất cả người
Việt Nam đều có quyền và nghĩa vụ vận
dụng mọi phương cách để ép buôc nhà
đương quyền CSVN phải bị thay thế
bởi một chế độ chính trị chính thống.
Đó là nội dung cốt lỏi của công cuộc
đấu tranh cho công lý tại Viêt Nam ngày nay vây./.
Đỗ Thái Nhiên
14/11/2011
dothainhien@yahoo.com