ẢNH HƯỞNG CỦA NHỮNG BIẾN CHUYỂN LỊCH
SỬ
ĐẾN VĂN HỌC VIỆT NAM THỜI CẬN ĐẠI
(Trình bày
tại Viện Việt Học, California, 13-7-2013)
Trần Gia Phụng
1.- GIỚI
THIỆU VẤN ĐỀ
Bài nầy chỉ nhắm trình bày ảnh hưởng của những biến chuyển lịch
sử đếnvăn học Việt Nam trong bối cảnh mở rộng bang giao quốc tế thời cậnđại,
chứ không đi vào giai đoạn toàn cầu hóa kinh tế chỉ mới diễn ravào khoảng
đầu thập niên 90 thế kỷ vừa qua khi nhiều nước bãi bỏ hàngrào quan thuế để
việc trao đổi kinh tế được rộng rãi, dễ dàng; và bàinầy cũng không đi vào
phần văn chương của đề tài.
2.- VIỆT
NAM MỞ RỘNG BANG GIAO QUỐC TẾ
Trước thế kỷ 19, Việt Nam chỉ giao thiệp với Trung Hoa và một
số nướcĐNÁ. Từ các vua đầu nhà Nguyễn, tức từ năm 1802 trở đi, Việt
Nam bắtđầu liên lạc thêm với vài nước phương Tây. Lúc đó, tại Âu
Châu, do sựphát kiến máy chạy bằng hơi nước trong cuộc cách mạng kỹ nghệ,
phươngtiện giao thông phát triển, các nước Âu Châu bắt đầu mở cuộc tìm kiếmthuộc
địa khắp thế giới.
Trong khi Anh, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Hà Lan tìm đến các
nước Á Châukhác, Pháp đến đánh Việt Nam từ năm 1858, chiếm ba tỉnh miền
Đông NamKỳ năm 1862, ba tỉnh miền Tây Nam Kỳ năm 1867, buộc Việt Nam phảinhượng
toàn bộ Nam Kỳ cho Pháp làm thuộc địa năm 1874, rồi đặt nền bảohộ trên
toàn cõi Việt Nam năm 1884. Điều 1 hòa ước 1884 buộc Việt Namphải lệ
thuộc Pháp về ngoại giao. Lúc đó, Pháp là một cường quốc,bang giao
rộng rãi với nhiều nước trên thế giới, nên qua nước Pháp,Việt Nam bắt đầu
giao thiệp thêm với nhiều nước ngoài vùng Đông Nam Á.Từ đó, nền bang giao
quốc tế của Việt Nam càng ngày càng rộng mở chođến ngày nay.
3.- THAY
ĐỔI CHỮ VIẾT VÀ GIÁO DỤC
Sự bảo hộ của người Pháp đưa đến nhiều thay đổi quan trọng về
tất cảcác mặt trong đời sống của người Việt. Về văn hóa, quan trọng
nhất làsự thay đổi chữ viết và hệ thống giáo dục. Người Việt nói tiếng
Việt,nhưng từ thời Ngô Quyền lập quốc năm 939 cho đến thời nhà Nguyễn, cáctriều đại quân chủ dùng
chữ Nho, tức chữ Hán và nói nôm na là chữ Tàu,làm chuyển ngữ trong hành
chánh và giáo dục.
Khi Pháp bảo hộ, để đào tạo viên chức cho chế độ mới, nhà cầm
quyềnthực dân Pháp nghĩ ngay đến việc thay đổi hệ thống giáo dục và chữviết
của người Việt Nam.
a) Giai
đoạn Pháp thăm dò (1861-1906):
Mẫu tự la-tinh và chữ quốc ngữ: Khi đến Đại Việt truyền
đạo ThiênChúa từ cuối thế kỷ 16, các giáo sĩ Tây phương cùng một số giáo
dânViệt, dựa theo mẫu tự La-tinh, sáng chế ra một thứ chữ mới mà
sau nầyđược gọi là chữ quốc ngữ. Đầu năm 1861, Pháp chiếm ba tỉnh
miền đôngNam Kỳ (Biên Hòa, Gia Định và Định Tường). Phó đô đốc
LéonardCharner, tổng tư lệnh quân đội Pháp tại Viễn đông, ra nghị định
ngày21-9-1861, thành lập Collège Annamite-Français de Monseigneur
l'Évêqued'Adran tại Sài Gòn, là trường thông ngôn dạy người Việt học chữ
Phápđồng thời dạy người Pháp học tiếng Việt bằng thứ chữ mới theo mẫu tựla-tinh.
(John DeFrancis, Colonialism and Language Policy in Vietnam,New York:
Moulton Publishers, 1977, tr. 76.)
Chữ quốc ngữ ở Nam Kỳ: Sau hòa ước Giáp Tuất
(18-3-1874), sáu tỉnhNam Kỳ trở thành thuộc địa Pháp. Thống đốc Nam
Kỳ là Louis Lafont,ban hành nghị định ngày 6-4-1878, theo đó kể từ
1-1-1882, ở Nam Kỳ,tất cả các giấy tờ như công văn, nghị định, quyết định,
bản án,lệnh... đều viết bằng mẫu tự la-tinh, tức chữ Pháp hay quốc ngữ,
chứkhông còn viết bằng chữ Nho. Cũng từ 1-1-1882, ở Nam Kỳ chỉ nhữngngười
biết quốc ngữ mới được tuyển dụng vào các cơ quan hành chánh cấpphủ, huyện,
tổng. (Alfred Schreiner, Abrégé de l'histoire d'Annam,Deuxième édition,
Sai Gòn: 1906, tr. 340.) Điều nầy có nghĩa là bêncạnh chữ Pháp, quốc
ngữ chính thức trở thành chuyển ngữ của dân chúngNam Kỳ, và chữ Nho không
còn được sử dụng ở Nam Kỳ.
Chữ quốc ngữ ở Trung và Bắc Kỳ: Pháp bảo hộ Trung và Bắc
Kỳ bằng hòaước Giáp Thân (6-6-1884). Lúc đầu Pháp duy trì nền giáo
dục Nho họcđể tránh va chạm với quan lại triều đình Huế mà đại đa số xuất
thânkhoa bảng Nho học. Năm 1887, Pháp thành lập Liên bang Đông
Dương, bắtđầu mở những trường dạy tiếng Pháp, trong khi vẫn để cho triều
đìnhViệt Nam tiếp tục mở những khoa thi Nho học (thi Hương và thi Hội).
b) Tiến
trình thay đổi giáo dục và thi cử (1906-1918):
Học chế 14-9-1906: Sau thời gian thăm dò, Pháp bắt đầu
tổ chức giáodục Pháp Việt. Quyền toàn quyền Đông Dương là Broni ban
hành học chếngày 14-9-1906 quy định các trường học Việt Nam gồm ba cấp ấu
học,tiểu học và trung học, đều có dạy quốc ngữ. Ai đậu kỳ thi cuối
khóacấp trung học, được gọi là thí sinh và sẽ được dự kỳ thi hương.
(LouisCury, La société annamite, les lettrés - les mandarins - le
peuple(Thèse pour le doctorat), Paris: Jouve et Cie, Éditeurs, 1910, tt.24-33.
(Nghị định do quyền toàn quyền Broni ký ngày 14-9-1906.)
Vận động cải cách của các nhà khoa bảng Việt: Trong
khi đó, các nhàkhoa bảng cựu học cấp tiến vào đầu thế kỷ 20 do Phan Châu
Trinh khởixướng, mở phong trào Duy tân, vận động cải cách văn hóa, chính
trịtrên toàn quốc, kêu gọi bãi bỏ Nho học, cổ xúy việc học quốc ngữ đểnâng
cao dân trí, vì một lý do đơn giản: quốc ngữ dễ học, dễ viết, dễphổ cập
hơn chữ Nho. Các ông vận động mở trường dạy quốc ngữ khắpnước, rầm
rộ nhất là ở Quảng Nam (1905), Bình Thuận (trường Dục Thanh (1907) và Hà
Nội (Đông Kinh Nghĩa Thục, 1907).
Học chánh tổng quy, bãi bỏ các kỳ thi Nho học: Từ năm
1909, quốc ngữđược đưa vào chương trình thi hương trên toàn Trung và Bắc
Kỳ. Khiđến Đông Dương làm toàn quyền lần thứ hai từ năm 1917,
Albert Sarrautra nghị định 21-12-1917 về “Quy chế chung về ngành giáo dục
công cộngở Đông Dương” (Règlement général de l'instruction publique
enIndochine), thường được gọi là “Học chánh tổng quy”, áp dụng cho
toàncõi Đông Dương để thay thế cho học chế Broni. Đặc biệt, phần cuốitổng
quy nầy định rằng các trường chữ Nho của tư nhân hay của triềuđình Huế, kể
cả quốc tử giám, đều được xếp vào loại trường tư và phảituân theo quy chế
của chính quyền Pháp. (Dương Kinh Quốc, Việt Nam:Những sự kiện lịch sử
(1858-1918), Hà Nội: Nxb Giáo Dục, 1999, tt.375-378.)
Sau “Học chánh tổng quy” năm 1917, thi hương bị bãi bỏ ngay ở
Bắc Kỳ.Ở Trung Kỳ còn kỳ thi Hương năm 1918, rồi chấm dứt luôn. Như
thế lànền giáo dục Nho học hoàn toàn bị dẹp bỏ. Ở đây xin ghi nhận công
ơncủa sử gia Trần Trọng Kim. Khi Pháp thay đổi chữ viết và hệ thốnggiáo
dục Việt Nam, Pháp âm mưu cắt đứt truyền thống dân tộc Việt, đàotạo các
thế hệ thanh thiếu niên mới không biết chữ Nho, nên không thểđọc và học lịch
sử đất nước vốn viết bằng chữ Nho. Sử gia Trần TrọngKim đã có công
soạn ngay bộ Việt Nam sử lược bằng quốc ngữ và ấn hànhlần đầu năm 1920 tại
Hà Nội (tức là ngay sau khi học chánh tổng quycủa Albert Sarraut bãi bỏ
Nho học), giúp cho lớp thanh thiếu niên mới,chỉ biết chữ Pháp và quốc ngữ
mà không biết chữ Nho, có thể tiếp tụchọc lịch sử Việt Nam.
3.- ẢNH
HƯỞNG VỀ ĐỀ TÀI VĂN HỌC
Đề tài yêu nước, tranh đấu: Văn chương chữ Hán cũng
như văn chươngchữ Nôm dưới thời nhà Nguyễn khá thịnh hành, thường xoay
quanh đề tàingâm vịnh, tả cảnh, tả tình nhẹ nhàng nhằm mục đích giải
trí. KhiPháp đánh chiếm và bảo hộ Việt Nam, sĩ phu chuyển hướng qua
đề tài yêunước và tranh đấu chống Pháp, bắt đầu từ Nguyễn Đình Chiểu(1822-1888),
qua thế hệ Phan Châu Trinh (1872-1926), Trần Quý Cáp(1870-1908), Huỳnh Thúc
Kháng (1876-1947), các tác giả trong Đông KinhNghĩa Thục và kéo dài đến
năm 1945.
Văn chương lãng mạn: Cùng với sự du nhập văn hóa Pháp,
các nền triếthọc, chính trị, văn học, nghệ thuật tây phương cũng tràn vào
Việt Nam,tạo thành nguồn cảm hứng cho những đề tài mới mẻ. Lúc đầu
nổi bậtnhất là khuynh hướng văn chương tình cảm, lãng mạn và xã hội, từTruyện
thầy Lazaro Phiền của P. J. B. Nguyễn Trọng Quản do nhà xuấtbản J. Linage
ấn hành năm 1887 tại Sài Gòn, nghĩa là đúng 30 năm trướckhi Nho học bị
bãi bỏ theo học chế tổng quy của Albert Sarraut (1917).Sau đó đến các tác
giả Hồ Biểu Chánh, Hoàng Ngọc Phách, các tác giảTự Lực Văn Đoàn...
Ngoài truyện ngắn, tiểu thuyết, phong trào thơlãng mạn rất thịnh hành một
thời, xuất hiện nhiều thi sĩ danh tiếng màhầu như ai cũng biết.
Chủ nghĩa cộng sản, tranh đấu giai cấp: Đảng Cộng Sản
Đông Dương đượcthành lập năm 1930. Từ đây, CS cổ xúy đề tài về chủ
nghĩa CS, vềtranh đấu giai cấp. Trong cuộc họp ban Thường vụ trung
ương đảng CSĐDtừ 25 đến 28-3-1943, tổng bí thư Trường Chinh đưa ra “Đề
cương văn hóaViệt Nam”, đặt văn nghệ phục vụ chính trị.
Năm 1949, Mao Trạch Đông và đảng Cộng Sản Trung Quốc chiếm
được lụcđịa Trung Hoa. Đầu năm 1950, Hồ Chí Minh qua Trung Quốc và
Liên Xôxin viện trợ. Nhờ sự giúp đỡ của CSTQ, Việt Minh chiến thắng
ở ĐồngKhê ngày 16-9-1950, vừa củng cố thế lực Việt Minh, vừa mở cửa
biêngiới sang Trung Quốc. Tư đây, CSVN rập khuôn theo đường lối văn
nghệcủa CSTQ, mở cuộc chỉnh huấn, chỉnh quân, thanh lọc hàng ngũ đảng
CS.Nếu trước đó, cho đến năm 1950, trong chiến khu Việt Minh, người tacòn
nghe hát những bản nhạc lãng mạn như “Suối mơ”, “Thiên Thai”, thìsau đó
trí thức văn nghệ sĩ phải dứt khoát theo chủ nghĩa cộng sản...Từ đây, đề
tài văn chương tại vùng CS hoàn toàn chuyển hướng qua đấutranh giai cấp,
ca tụng chủ nghĩa CS, lãnh tụ CS Việt Nam và thế giới... (Huy Đức, Bên thắng
cuộc, tập 2, Quyền bính, bản điện tử, tiểu mục“Xiềng xích nhân văn”.)
Tiếp nối khuynh hướng lãng mạn: Cũng trong năm 1949, cựu
hoàng BảoĐại ký kết với tổng thống Pháp là Vincent Auriol hiệp định
Élysée ngày8-3-1949, thành lập chính thể Quốc Gia Việt Nam. Quốc
Gia Việt Namchuyển qua giai đoạn hậu thuộc địa, nền văn học lãng mạn thời
Phápthuộc tiếp tục kéo dài thêm một thời gian cho đến khi hiệp định
Genèveđược ký kết ngày 20-7-1954.
4.- ẢNH
HƯỞNG VỀ HÌNH THỨC VĂN HỌC
Chẳng những đề tài thay đổi theo những biến chuyển chính trị,
mà hìnhthức văn chương Việt Nam cũng thay đổi theo thời cuộc.
Tiểu thuyết văn xuôi: Thời nhà Nguyễn, tiểu thuyết thường
được viếtbằng văn vần, thể lục bát hay song thất lục bát (Truyện Kiều,
Chinhphụ ngâm khúc, Cung oán ngâm khúc…). Qua thời Pháp thuộc, tiểu
thuyếtđược viết bằng văn xuôi như người Pháp, mở đầu bằng Truyện thầy
LazaroPhiền của P. J. B. Nguyễn Trọng Quản năm 1887 (đã viết ở trên).Truyện
ngắn và truyện dài càng ngày càng nhiều ở cả Hà Nội lẫn SàiGòn. Nhiều
nhà văn bắt đầu dịch các truyện Tàu, sau đến dịch cáctruyện Pháp và truyện
của các nước khác qua bản Pháp ngữ như truyệnNga, Mỹ, Đức... Bên cạnh
truyện dịch còn có các truyện phóng tác theocác truyện Tây phương nhưng dựa
trên khung cảnh xã hội Việt Nam.
Thơ mới: Trước đây, các thi sĩ cổ điển làm thơ Đường
theo thể 8 câu 7chữ, thơ 5 chữ (ngũ phong) và phú. Thơ Đường luật
(8 câu 7 chữ) phảituân niêm luật đối câu, đối chữ, đối nghĩa rất khó
khăn, càng ngàycàng ít người sử dụng. Thơ lục bát và song thất lục
bát là hai thểthơ gốc từ người Việt, vẫn còn được sử dụng. Vào đầu
thập niên 30,xuất hiện thể thơ mới. Bài “Tình già” của Phan Khôi
(1887-1959) trênbáo Phong Hóa (Hà Nội) ngày 24 janvier 1933 có thể là bài
mở đầu chophong trào thơ mới và thơ tự do rất phóng khoáng, không theo
khuôn khổthơ nhất định.
Các sinh hoạt văn học khác: Một hình thức văn học hoàn
toàn mới mẻvới người Việt Nam là ngành báo chí, hết sức phong phú.
Tờ báo tiếngViệt đầu tiên bằng thứ chữ mới là tờ Gia Định Báo, ra số đầu
ngày15-4-1865. (Huỳnh Văn Tòng, Báo chí Việt Nam từ khởi thủy đến
1945[tái bản, hiệu đính và bổ sung], Nxb. TpHCM, 2000, tt. 55-59.)
Báochí phát triển nhanh chóng nhờ kỹ nghệ in càng ngày càng tân tiến vàphổ
thông. Ngoài ra, còn có những bài tùy bút (ngày nay gọi là bútký),
phê bình văn học, bình luận chính trị, bút chiến rất sôi động.
5.- ẢNH
HƯỞNG CỦA HIỆP ĐỊNH GENÈVE: HAI DÒNG VĂN HỌC
Một biến cố biến cố lịch sử lớn ảnh hưởng đến văn học Việt
Nam là hiệpđịnh Genève ngày 20-7-1954, chia hai nước Việt Nam ở vĩ tuyến
17. .
Văn học ở Bắc Việt Nam: Dưới chế độ mới của cộng sản ở
phía bắc vĩtuyến 17 sau năm 1954, các văn nghệ sĩ Bắc Việt Nam (BVN) bị bắt
buộcphải theo sát giáo điều Mác xít và đường lối chính sách của nhà nước,đến
nỗi có người đã phát biểu: "Hai năm hòa bình, chúng ta thấy nhiềunhà
văn (trước kia) có tài, (ngày nay) bị buộc chặt vào địa vị, bằngnhững sợi
lụa có tẩm độc. Tác phẩm của họ (ngày nay) chỉ là chỉ thị,kế hoạch,
công văn, thông cáo..." (Phát biểu của thi sĩ Hoàng Huế gởiĐại hội
Văn nghệ Toàn quốc, đăng trên Giai Phẩm Mùa Xuân, Hà Nội,1956. (Hoàng Văn
Chí, Trăm hoa đua nở trên đất Bắc, Sài Gòn: Mặt trậnBảo vệ Tự do Văn hóa,
1959, tt. 11-12.)
Nhiệm vụ mới của giới văn nghệ sĩ được Trường Chinh, uỷ
viên Bộ chínhtrị đảng Lao Động (hậu thân của đảng CSĐD), Chủ tịch Uỷ ban
Thường vụQuốc hội (từ ngày 7-7-1960), quy định trong bài "Tăng cường
tính đảng,đi sâu vào cuộc sống mới để phục vụ nhân dân, phục vụ cách mạng
tốthơn nữa" đọc trước Đại hội Văn nghệ Bắc Việt năm 1962: " Văn
nghệ sĩphải thừa nhận rằng văn nghệ phục vụ chính trị, phục vụ đường lốichính
sách của đảng. Văn nghệ sĩ phải trung thành với lý tưởng cộngsản và
đấu tranh không mệt mỏi cho chủ nghĩa xã hội. Văn nghệ sĩ bằnghoạt
động văn nghệ và hoạt động xã hội của mình cần luôn luôn phấn đấuđể tăng
cường sự lãnh đạo của đảng, củng cố lòng tin của quần chúngđối với đảng,
bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác-Lênin..." (ThânTrọng Mẫn:
"Từ phong trào Nhân Văn Giai Phẩm đến Cao trào văn nghệphản kháng
1986-1989",trong tuyển tập nhiều tác giả Trăm hoa vẫn nởtrên quê
hương, California: Nxb. Lê Trần, 1990, tr. 24.)
Vì vậy văn học BVN từ 1954 đến 1975 chỉ sôi động giai đoạn từ
1954 đến1956 khi các văn nghệ sĩ vận động đòi quyền tự do sáng tác và yêu
cầuđảng CS, lúc đó có tên là đảng Lao Động (LĐ) đừng can thiệp công việcsáng
tác của họ. Đảng LĐ liền thanh trừng, đàn áp, bắt bớ, tù đàynhững
văn nghệ sĩ nầy, tạo ra vụ án “Nhân văn và Giai phẩm”. Văn nghệsĩ
BVN trở thành những văn công của đảng, phục vụ công cuộc cai trịđộc tài
và nhất là cuộc xâm lăng miền Nam từ năm 1960. Từ đó, văn họcBVN
“chỉ là chỉ thị, kế hoạch, công văn, thông cáo...” đúng như thi sĩHoàng
Huế đã phát biểu.
Văn học Nam Việt Nam: Nếu BVN hoàn toàn bưng bít, thì
ngược lại, NamViệt Nam (NVN) chủ trương tự do tư tưởng, tự do sáng tác, mở
cửa đónnhận tất cả các luồng văn hóa mới từ nhiều nước khác nhau.
Ngoài vănhóa Pháp và Âu Châu, nền văn hóa Hoa Kỳ tràn vào NVN khi người Mỹ
càngngày càng đông đảo ở NVN và sinh viên Việt Nam sang Hoa Kỳ du học.Chẳng
những văn học mà cả âm nhạc và điện ảnh Hoa Kỳ ảnh hưởng mạnhđến giới trẻ
Việt Nam.
Điểm đặc biệt là dù NVN phải chống trả cuộc xâm lăng của
BVN, văn nghệsĩ NVN được tự do sáng tác nên nền văn học nghệ thuật NVN rất
phongphú, đa dạng. Bên cạnh những tác phẩm chiến đấu, lại xuất hiện
nhiềuvăn thơ và nhất là ca nhạc thở than uỷ mỵ. Từ sự uỷ mỵ nầy,
nhiều tácphẩm phản chiến xuất hiện, làm xói mòn và sa sút rất nhiều tinh
thầnchiến đấu của chiến sĩ ngoài tiền tuyến.
Tự do sáng tác tạo nên một khác biệt lớn lao giữa chế độ miền
Nam tựdo dân chủ với chế độ miền Bắc cộng sản độc tài. Đây là một
ưu điểmcủa NVN, nhưng đồng thời cũng là một nhược điểm của NVN vì BVN
khôngbỏ qua cơ hội lợi dụng quyền tự do sáng tác để gây suy nhược tinh thầnchiến
sĩ, làm rối loạn và băng hoại xã hội miền Nam.
6.- ẢNH
HƯỞNG CỦA HIỆP ĐỊNH PARIS: VĂN HỌC HẢI NGOẠI
Sau hiệp định Paris ngày 27-1-1973, Hoa Kỳ rút quân khỏi NVN
và ngưngviện trợ cho NVN. Nam Việt Nam một mình tiếp tục chiến đấu
chống cuộcxâm lăng của BVN. Trong khi đó, BVN vẫn được Liên Xô và
Trung Cộngviện trợ đầy đủ, và còn viện trợ gấp 4 lần so với trước hiệp địnhParis.
Cuối cùng NVN thất bại ngày 30-4-1975. Cộng sản BVN chiếmđược toàn
thể lãnh thổ Việt Nam.
Ở trong nước sau năm 1975, văn nghệ sĩ bị gò bó theo giáo điều
CS, chỉđược ca tụng thành quả của đảng CS, ca tụng những gương anh hùng
xãhội chủ nghĩa, đả kích những người vượt biên là những người phảnquốc...
Đảng CSVN kiểm soát rất chặt chẽ các sinh hoạt văn hóa, sángtác.
Sau ngày 30-4-1975, nhiều người bỏ nước ra đi tìm tự do và định
cử ởnước ngoài. Người Việt nước ngoài càng ngày càng đông, hoàn
toàn tựdo sáng tác đủ loại đề tài. Càng ngày đề tài của văn nghệ sĩ
hảingoại càng mở rộng, đa dạng. Nhờ tự do dân chủ, nhờ điều kiện họchành
thoải mái, người Việt ở hải ngoại có thể sáng tác, nghiên cứu tấtcả các đề
tài văn hóa, tôn giáo, chính trị, kinh tế, xã hội mà khôngbị cấm
đoán. Có nhiều người viết tiếng Anh hay tiếng Pháp tùy theođịa
phương cư trú. Tính theo tỷ lệ dân số, số lượng tác phẩm xuấthiện ở
hải ngoại rất dồi dào so với tác phẩm ở trong nước.
Nhà nước CS cho rằng nền văn học hải ngoại là nền văn học phản
động,lưu vong, mất gốc, nhưng thực tế cho thấy nền văn học Việt Nam hảingoại
tiếp nối nền văn học NVN hay Việt Nam Cộng Hòa, dựa trên căn bảntruyền thống
dân tộc cổ truyền, trong khi người Việt tiếp thu thêmnhững tinh hoa văn
hóa nước ngoài khi đến định cư tại các nước trênthế giới. Trong
tương lai, một khi chế độ cộng sản bị giải thể, chắcchắn nền văn học nghệ
thuật hải ngoại sẽ hồi hương và sẽ là nền tảngthúc đẩy nền văn học nghệ
thuật trong nước phát triển trở lại.
7.- ẢNH
HƯỞNG CỦA COMPUTER VÀ INTERNET
Khoảng đầu thập niên 90 thế kỷ vừa qua, sự phát triển của
computer vàInternet là một biến cố lịch sử trọng đại, có thể xem là cuộc
cáchmạng kỹ nghệ thế giới lần thứ hai, làm thay đổi toàn bộ xã hội cácnước
trên thế giới, kể cả Việt Nam cộng sản.
Computer giúp việc học hỏi, nghiên cứu, sáng tác dễ dàng,
nhanh chóng.Ngành computer hải ngoại phát triển mạnh và sớm hơn trong nước
là mộttrong những lý do mà người Việt ở hải ngoại sáng tác nhiều hơn ở
trongnước.
Sự bộc phát của computer đi kèm với sự bùng nổ của Internet,
nhất lànhững trang web xuất hiện vào đầu thập niên 90. Tuy cố gắng
ngăn cản,nhưng CS không thể chận đứng hoàn toàn Internet. Qua
computer vàinternet, dân chúng trong nước có thể truy cập được những
thông tin,sách báo ở hải ngoại mà lâu nay CSVN bưng bít, che đậy, giấu diếm.Nhờ
đó, dân trí trong nước dần dần lên cao trở lại.
Trước đây, CSVN kiểm soát việc in ấn sách báo trên giấy rất
chặt chẽ.Ngày nay, các văn nghệ sĩ trong nước chỉ cần phóng lên mạng
thông tintoàn cầu sáng tác của mình, thì người Việt trong nước và trên khắptoàn
cầu đọc ngay được dễ dàng. Điều nầy kích thích văn nghệ sĩ trongnước
sáng tác mạnh mẽ hơn, và đề tài tự do đa dạng hơn, chứ không cònbị gò bó
trong giáo điều CS.
Thên mữa, các blog xuất hiện càng ngày càng nhiều, vừa giải
trí, vừathông tin, vừa giải bày tâm sự, vừa tranh đấu đòi hỏi tự do dân
chủmột cách bất bạo động. Ai cũng có thể viết blog, ai cũng có thể
mởfacebook.
Một mặt CS xây dựng bức tường lửa, ngăn chận thông tin trên
Internet,một mặt công an CS truy lùng, bắt giam, tù đày những người viết
mà CSkết tội là phản động, nhưng sự xuất hiện của computer và Internet tạohoàn
cảnh thuận tiện cho “trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng” ở trongnước, và
thúc đẩy nền văn học trong nước nhảy vọt đáng kể trong thờigian gần đây.
Ngoài ra, khi nền kinh tế chỉ huy của CS suy sụp, đảng CS bắt
buộcphải mở cửa, chuyển qua kinh tế thị trường tức kinh tế tự do để cứunguy
cho đảng CS. Từ đó Việt Nam dần dần tiến vào thị trường thếgiới, dầu
nhà nước CS vẫn “định hướng xã hội chủ nghĩa”. Khi Việt Nammở cửa,
các nước trên thế giới, nhất là các tổ chức theo dõi nhânquyền, đã can
thiệp, giúp đỡ cho văn nghệ sĩ trong nước mạnh dạn đềcập đến nhiều đề tài
mà lâu nay bị CS cấm kỵ.
KẾT LUẬN
Lịch sử là quá khứ của con người. Văn học là sàn phẩm
của con người.Lịch sử luôn luôn tác động đến văn học và ngược lại văn học
phản ảnhnhững biến chuyển lịch sử. Những thay đổi lớn lao trong lịch
sử ViệtNam từ 1884 cho đến nay làm cho văn học thay đổi mạnh mẽ đồng thờicũng
được các tác phẩm văn học ghi lại dấu ấn khá rõ ràng.
Khi bị Pháp bảo hộ năm 1884, nền văn học bị ảnh hưởng tận gốc
rễ doviệc thay đổi chữ viết, hệ thống giáo dục và văn hóa. Người
Pháp muốncắt đứt truyền thống quá khứ để đào tạo một thế hệ trí thức mới,
phụcvụ chế độ Pháp thuộc. Nền văn học từ thời Pháp thuộc hoàn toàn
khácbiệt với nền văn học cổ điển, từ hình thức đến nội dung.
Sau thời Pháp thuộc, từ năm 1945 cho đến nay, lịch sử Việt
Nam trảiqua những thay đổi chính trị lớn lao nên văn học cũng trải qua nhữngbiến
thái lớn lao về nội dung lẫn hình thức. Tuy nhiên, có thể dohoàn cảnh
gò bó về chính trị ở trong nước, hoàn cảnh khó khăn khi mớilập nghiệp ở
nước ngoài, nên chưa xuất hiện những tác phẩm văn chươngkhai thác hết những
góc cạnh lịch sử Việt Nam vừa qua, tạo ra nhữngtác phẩm vĩ đại như Cuốn
theo chiều gió của Magaret Mitchell (Hoa Kỳ)hay Chiến tranh và hòa bình của
Leon Tolstoi (Nga). Hy vọng, một khiđất nước thực sự tự do dân chủ,
thanh bình thịnh trị, người Việt trongvà ngoài nước bình tâm sáng tác, sẽ
xuất hiện những tác phẩm vănchương lớn, phản chiếu lại toàn cảnh lịch sử
đầy giông bão của đấtnước chúng ta từ thế kỷ 19 cho đến ngày nay.
TRẦN GIA PHỤNG
California, 13-7-2013)
|